Nên bỏ “room” tín dụng cho ngân hàng thương mại?
NHNN nên bỏ hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại mà thay vào đó là kiểm soát tín dụng theo hệ số an toàn vốn (CAR).
TS Cấn Văn Lực - chuyên gia tài chính ngân hàng đã cho biết như vậy trong hội thảo “Chính sách tài chính tiền tệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 6 tháng cuối năm 2017” vừa diễn ra vào cuối tuần này.
Hiện nay, NHNN đang áp dụng hạn mức tín dụng cho từng ngân hàng thương mại dựa trên năng lực, sức khỏe của từng ngân hàng cũng như mục tiêu tín dụng toàn ngành mỗi năm. Theo đó, có ngân hàng được cấp hạn mức tín dụng 10%, có ngân hàng được cấp hạn mức tín dụng 20-30%.
Thông thường, hạn mức này sẽ được NHNN đưa ra vào đầu năm và sẽ có thể điều chỉnh cho từng ngân hàng vào giữa năm, sau khi có kết quả kinh doanh 6 tháng.
“Hạn mức tín dụng là một trong những công cụ hành chính rất ít nơi trên thế giới còn áp dụng. Thay vào đó, chúng ta nên tuỳ thuộc vào khả năng và quyết định riêng của từng ngân hàng dựa trên cơ sở năng lực của họ” – vị chuyên gia này nói.
Ông cho biết thêm “Việc giao chỉ tiêu tín dụng đối với các nhà băng rõ ràng là một biện pháp hành chính. Chúng ta nên điều hành theo cơ chế thị trường, tức bỏ hạn mức này, thay vào đó sẽ kiểm soát chặt chẽ các nhà băng bằng hệ số an toàn vốn CAR. Bởi, tử số của hệ số này chính là vốn chủ sở hữu và mẫu số là tín dụng và đầu tư, theo đó, kiểm soát được hệ số này sẽ khả thi hơn và không mang tính hành chính quá nhiều”.
Được biết, hạn mức tín dụng đã được NHNN áp dụng năm 1994 nhằm kiểm soát tăng trưởng tín dụng quá đà. Chính sách này đã bị bãi bỏ năm 1998.
Bởi do bản chất của hạn mức tín dụng là công cụ điều hành mang tính hành chính, can thiệp trực tiếp và chỉ được phân bổ đối với một số NHTM, nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Đồng thời, hạn mức này cũng không được điều chỉnh một cách linh hoạt theo tín hiệu thị trường, đã làm ảnh hưởng đến việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
Sau hơn 13 năm được dỡ bỏ, đến năm 2011, công cụ này lại được NHNN sử dụng trong điều hành. Nguyên nhân do tín dụng giai đoạn đó tăng trưởng quá nóng, có những lúc tỷ lệ tín dụng/GDP lên tới 158%, dẫn tới không thể kiểm soát lạm phát.
Tuy vậy, đến thời điểm hiện tại, khi tình hình đã cơ bản ổn định trở lại, chuyên gia này cho rằng, việc bỏ biện pháp này là một trong những lựa chọn đáng bàn.
Đánh giá về thị trường tiền tệ 6 tháng đầu năm 2017, TS Cấn Văn Lực cho rằng, Ngân hàng Nhà nước đã điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, nhất quán và lực chọn giải pháp phù hợp gắn liền với mục tiêu đặt ra và điều kiện thị trường cụ thể.
Thanh khoản hệ thống ngân hàng tốt, mặt bằng lãi suất duy trì ổn định mặc dù chịu áp lực tăng vào đầu năm. Thị trường ngoại hối ổn định trở lại sau một số biến động trong 2 tháng cuối năm 2016. Tín dụng tăng trưởng khá, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.
“Tái cơ cấu nền kinh tế chậm, việc xử lý nợ xấu còn khó khăn đã ảnh hưởng đến mục tiêu hạ lãi suất cho vay và lành mạnh hệ thống tài chính tín dụng. Hệ thống ngân hàng sẽ tiếp tục chịu áp lực lớn về vốn và các gói tín dụng để hỗ trợ nền kinh tế” - TS Lực nhận định.
Dự báo thị trường tài chính tiền tệ 6 tháng cuối năm 2017, ông Lực cho rằng, rủi ro tài chính tiền tệ ở mức cao do tác động của thế giới như việc FED có thể tăng lãi suất thêm 1 lần nữa vào năm 2017 và 2 lần năm 2018.
Với tình hình trong nước, việc theo đuổi mục tiêu tăng trưởng ở mức cao trong ngắn hạn và thiếu các động lực tăng trưởng bền vững sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro với kinh tế vĩ mô và hệ thống tài chính ngân hàng trong dài hạn. Bên cạnh đó, tiến trình xử lý nợ xấu còn nhiều thách thức trong thời gian tới.
Trước tình hình trên, TS Cấn Văn Lực cho rằng cần triển khai các giải pháp hỗ trợ như mở rộng tăng trưởng cung tiền và tín dụng ở mức hợp lý (16-18%) trong năm 2017. Đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu các tài chính tín dụng và triển khai Nghị quyết xử lý nợ xấu.