Cạn room tín dụng, các ngân hàng nên làm gì tiếp theo?

Theo chuyên gia, có 2 câu chuyện chính sẽ xoay quanh nhóm ngân hàng thời gian tới đó là việc làm sao để nới được room tín dụng và khi nào thị trường bất động sản thông thoáng trở lại.

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, riêng quý I/2022, tín dụng đã tăng 5,04%, mức tăng trưởng cao vượt trội so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm ngoái (mức 1,26%). Trong khi đó khảo sát tại các ngân hàng, vì tăng trưởng tín dụng mạnh trong những tháng đầu năm, hầu như các ngân hàng đã cạn room ngay thời điểm cuối tháng 3. Đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa phát đi tín hiệu cho thấy room tín dụng sẽ được nới thêm. Trong khi đó, gói hỗ trợ lãi suất 2% đang được gấp rút đưa vào nền kinh tế.

Vì sao mới quý I các ngân hàng đã hết quota?

Theo ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc khối phân tích khách hàng cá nhân, Công ty chứng khoán Yuanta Việt Nam, vì nền kinh tế phục hồi nên dòng tiền đã quay trở lại với hoạt động sản xuất kinh doanh, điều này đã góp phần kích thích tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ như thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận chảy gián tiếp vào thị trường bất động sản, chứng khoán.

"Theo thống kê của Quốc hội, tổng dư nợ của bất động sản trên 20%, song thời gian qua nhân tố chính kích thích tăng trưởng tín dụng trở lại vẫn là từ các ngành sản xuất"- Ông Minh nhận định.

Chia sẻ thêm, chuyên gia cho biết, hoạt động tín dụng ở ngân hàng chủ yếu có 2 hình thức là vay tín chấp và vay thế chấp. Để vay với mức lãi suất tốt hơn, thông thường các doanh nghiệp và hộ gia đình sẽ chọn vay thế chấp. Tài sản đảm bảo ở đây phần lớn là các bất động sản. Mặc dù không chủ động cho vay nhà đất, song các tài sản thế chấp lại vô tình gián tiếp tạo ra một rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng.

Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, riêng quý I/2022, tín dụng đã tăng 5,04%, mức tăng trưởng cao vượt trội so với tốc độ tăng trưởng cùng kỳ năm ngoái (mức 1,26%). Trong khi đó khảo sát tại các ngân hàng, vì tăng trưởng tín dụng mạnh trong những tháng đầu năm, hầu như các ngân hàng đã cạn room ngay thời điểm cuối tháng 3. Đến nay, Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa phát đi tín hiệu cho thấy room tín dụng sẽ được nới thêm. Trong khi đó, gói hỗ trợ lãi suất 2% đang được gấp rút đưa vào nền kinh tế.

Vì sao mới quý I các ngân hàng đã hết quota?

Theo ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc khối phân tích khách hàng cá nhân, Công ty chứng khoán Yuanta Việt Nam, vì nền kinh tế phục hồi nên dòng tiền đã quay trở lại với hoạt động sản xuất kinh doanh, điều này đã góp phần kích thích tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ như thời gian vừa qua. Bên cạnh đó, vẫn có một bộ phận chảy gián tiếp vào thị trường bất động sản, chứng khoán.

"Theo thống kê của Quốc hội, tổng dư nợ của bất động sản trên 20%, song thời gian qua nhân tố chính kích thích tăng trưởng tín dụng trở lại vẫn là từ các ngành sản xuất"- Ông Minh nhận định.

Chia sẻ thêm, chuyên gia cho biết, hoạt động tín dụng ở ngân hàng chủ yếu có 2 hình thức là vay tín chấp và vay thế chấp. Để vay với mức lãi suất tốt hơn, thông thường các doanh nghiệp và hộ gia đình sẽ chọn vay thế chấp. Tài sản đảm bảo ở đây phần lớn là các bất động sản. Mặc dù không chủ động cho vay nhà đất, song các tài sản thế chấp lại vô tình gián tiếp tạo ra một rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng.

Cạn room tín dụng, các ngân hàng nên làm gì tiếp theo? - Ảnh 1.

Ông Nguyễn Thế Minh, Giám đốc khối phân tích khách hàng cá nhân, Công ty chứng khoán Yuanta Việt Nam

Việc hết room tín dụng sẽ ảnh hưởng thế nào đến ngân hàng và doanh nghiệp?

Theo ông Minh, việc cạn room chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng các ngân hàng, nhất là những nhà băng đã hết hạn mức.

Thời gian gần đây, các ngân hàng khá dồi dào thanh khoản. Điều này đồng nghĩa với việc lượng huy động vào nhiều, song lượng cho vay ra lại ít.

Trước đây, khi gặp tình trạng này các ngân hàng thường sẽ chọn mua trái phiếu doanh nghiệp. Từ đầu năm đến nay, lượng trái phiếu phát hành cũng không nhiều. Bộ tài chính cũng đã bắt đầu rà soát và thanh tra lại các hoạt động trên thị trường này và các ngân hàng cũng không mạnh tay như trước.

Hiện nay, chỉ còn lại một kênh là trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, trái phiếu chính phủ cho lợi suất không cao.

"Lãi suất huy động tăng song lại không có đầu ra cho vay. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng ngân hàng. NIM các ngân hàng sẽ có nhiều khả năng giảm trong quý II và áp lực cũng sẽ không ít với các ngân hàng" - Ông Minh đánh giá

Theo chuyên gia, có 2 câu chuyện chính sẽ xoay quanh nhóm ngân hàng thời gian tới đó là việc làm sao để nới được room tín dụng và khi nào thị trường bất động sản thông thoáng trở lại.

Bên cạnh đó, Ông Minh cũng lưu ý nếu kiểm soát quá chặt chẽ doanh nghiệp sản xuất cũng khó có thể tiếp cận được tín dụng để khôi phục sản xuất.

"Chính phủ vừa có thêm gói hỗ trợ lãi suất 2%, song việc cạn room cũng có thể khiến cho các ngân hàng không tham gia hành động được" – chuyên gia chia sẻ.

Ngân hàng nên làm gì?

Theo ông Minh, hạn mức tăng trưởng tín dụng thời gian tới sẽ tăng lên. Vì 2 năm Covid vừa qua, các doanh nghiệp đã bị ảnh hưởng rất nhiều, nhất là ở nhóm dịch vụ. Nếu không được bơm vốn các doanh nghiệp có thể không phục hồi được. Việc các doanh nghiệp không thể vực dậy được có thể gây ra áp lực nợ xấu, điều này là không tốt cho cả hoạt động tín dụng lẫn nền kinh tế.

Theo chuyên gia, các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt, tài chính lành mạnh, bộ đệm vốn tốt sẽ được ưu tiên giao room tăng trưởng tín dụng cao hơn. Vì thế, bên cạnh việc trông chờ vào cơ chế "xin - cho", các ngân hàng có thể chủ động phát hành thêm cổ phiếu từ nguồn lợi nhuận giữ lại để tăng vốn điều lệ, tăng tỷ lệ an toàn vốn để có thể tiếp tục cho vay.

Tuy nhiên, điều này là khá khó khăn vì thị trường chứng khoán nhìn chung đang chịu áp lực hạn chế đà tăng giá và dòng ngân hàng nói riêng đang có những sự điều chỉnh nhất định. Chính vì thế, nếu pha loãng, tăng vốn rất có khả năng sẽ kéo dài đà giảm giá cho nhóm này.

Câu chuyện sâu xa hơn các ngân hàng có thể tính đến đó là bán vốn cho cổ đông nước ngoài. Hiện tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các nhà băng tối đa chỉ khoảng 30%. Tuy nhiên, như đã đề cập bên trên, việc thị trường chứng khoán chưa có nhiều dấu hiệu sôi động hơn cũng là một vấn đề quyết định sự thành công của những đợt bán vốn ngoại.

Những ngân hàng có nguồn vốn hạn hẹp hơn hoặc phụ thuộc vào ngân sách nhà nước, lại "full room ngoại", việc tăng vốn cũng sẽ là khó khăn hơn trong thời gian tới.

Tổng kết, chuyên gia cho rằng có 3 biện pháp chính để tăng room tín dụng đó là 1) chờ đợi tín hiệu từ Ngân hàng Nhà nước, 2) tăng vốn từ nguồn lợi nhuận giữ lại, 3) Nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài.

Room tín dụng - cơ chế hợp lý song cần thúc đẩy sự cạnh tranh

Chuyên gia đánh giá, cơ chế room tín dụng ở Việt Nam là hợp lý song vẫn còn nhiều yếu tố cần cải thiện để nâng cao tính cạnh tranh giữa các ngân hàng.

Cụ thể, room tín dụng là một cơ chế phù hợp để ngăn các ngân hàng tăng trưởng tín dụng quá nóng hoặc có những hành vi không phù hợp với các chuẩn mực quản trị rủi ro. Đơn cử như giai đoạn 2020-2021, dòng tiền rẻ xuất hiện trên thị trường, nếu không có room tín dụng và dòng tiền được tự do chảy vào các hoạt động chứng khoán cùng bất động sản thì rủi ro sẽ là rất lớn.

Mặc dù ưu điểm của quy định này là giúp kiểm soát tốt các ngân hàng có chất lượng tài sản không tốt, phòng ngừa một số rủi ro, song nó vẫn có những hạn chế nhất định.

"NHNN đang áp dụng một cách đồng bộ quy định lên cả hệ thống. Điều này có thể sẽ tạo ra sự không công bằng đối với những ngân hàng có chất lượng tài sản tốt" - Ông Minh chia sẻ.

Cũng theo chuyên gia, cơ chế này cần phải có một sự đánh giá xếp hạng tốt hơn. Đối với những ngân hàng có thứ hạng tốt, Ngân hàng Nhà nước có thể cấp cho một mức tăng trưởng tín dụng cao hơn so với các ngân hàng ở tốp sau.

Chuyên gia kiến nghị sử dụng cơ chế "stress test" như các nước phát triển hoặc có thể thông qua các tổ chức xếp hạng tín nhiệm để ra quyết định cấp room tín dụng cho các ngân hàng. Điều này sẽ giúp tạo ra lợi thế cạnh tranh cho các ngân hàng có chất lượng tốt, đồng thời thúc đẩy và buộc các ngân hàng yếu kém thay đổi mình.

Theo Nhịp sống kinh tế

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế, hướng tới đột phá chiến lược

Ngày 1/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam đã ký Quyết định số 114/QĐ-BCĐTTTC, phê duyệt Kế hoạch hành động triển khai xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam. Đây được xem là những bước đi chiến lược, mang tầm nhìn dài hạn nhằm đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ tài chính khu vực và toàn cầu.

Tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm nhân thọ

Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững (2015- 2021), từ năm 2022 thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam có dấu hiệu chững lại và suy giảm rõ rệt. Đặc biệt, trong các năm 2023 và 2024, phí bảo hiểm giảm lần lượt 11,9% và 5,7%, trong khi số lượng hợp đồng giảm 10,7% và 5,2% so với năm liền trước. Điều này cho thấy thị trường đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như suy thoái kinh tế, thay đổi trong hành vi tiêu dùng, đặc biệt là mất niềm tin từ khách hàng sau các vụ việc tiêu cực.

Duy trì lãi suất ở mức thấp quá lâu sẽ tiềm ẩn rủi ro

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động và Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025, điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ lãi suất đang được kỳ vọng phát huy vai trò hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi

Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) của Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh từ định hướng phát triển kinh tế của thành phố gắn liền với phát triển thị trường tài chính là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, gắn với các cơ chế chính sách đặc thù, tầm nhìn dài hạn. Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Hồng Văn, Phó tổng giám đốc Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước TP. Hồ Chí Minh (HFIC) đã có những chia sẻ với phóng viên.

Video