Dự thảo nghị định điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực hàng không: DN muốn lớn phải… xin phép
Doanh nghiệp ngành hàng không muốn phát triển đội bay, mở rộng kinh doanh sẽ phải… xin phép Bộ GTVT. Điều không tưởng đó đang được chính Bộ GTVT đưa ra tại dự thảo Ngành nghề kinh doanh có điều kiện lĩnh vực hàng không dân dụng.
Siết quản lý máy bay…
Trên thực tế, với 8 chương, 31 điều, dự thảo Nghị định là sự tổng hợp các điều kiện gia nhập thị trường hàng không cho các nhà đầu tư vốn nằm rải rác tại Luật Hàng không dân dụng 2014; Nghị định số 30/2013/NĐ-CP về kinh doanh vận chuyển hàng không và hoạt động hàng không chung; Nghị định số 102/2015/NĐ – CP về quản lý, khai thác cảng hàng không, sân bay… đồng thời có tham khảo thông lệ quốc tế trong lĩnh vực hàng không.
Tuy nhiên, trở lực thể hiện rõ nhất trong dự thảo Nghị định chính là khoản 2 – điều 9 liên quan đến phương án kinh doanh và chiến lược phát triển của doanh nghiệp hàng không. Theo dự thảo nghị định do Bộ GTVT công bố, sau 5 năm kể từ ngày doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh vận tải hàng không, việc phát triển đội tàu bay của doanh nghiệp phải được sự chấp thuận của cơ quan quản lý theo định kỳ 5 năm. Cơ quan soạn thảo giải thích rằng, quy định này được thiết kế để việc phát triển đội tàu bay của các hãng hàng không phù hợp với quy hoạch phát triển vận tải hàng không, sự đáp ứng của kết cấu hạ tầng cảng hàng không, sân bay.
Tuy nhiên, chiến lược phát triển kinh doanh ngày càng lớn, ngày càng hiệu quả là mong muốn, là mục tiêu, là đích ngắm cuối cùng khi doanh nghiệp được thành lập. Dù là loại hình kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp luôn mong muốn mình ngày một lớn mạnh, nhu cầu thị trường và yếu tố phát triển nội tại sẽ quyết định doanh nghiệp đó có đủ tiềm lực để “lớn” hay không.
Chính vì vậy, việc một cơ quan quản lý nhà nước giành quyền phê duyệt mục tiêu phát triển, đội tàu bay khai thác, phương án huy động vốn, thời hạn, tiến độ thực hiện…của doanh nghiệp rất có thể sẽ làm hạn chế sự tự chủ trong hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư.
Lý giải của cơ quan quản lý là cần kiểm soát tốc độ tăng trưởng phù hợp với phát triển hạ tầng, thậm chí cần kiểm soát hàng không để các loại hình khác như đường sắt, đường bộ cùng có tốc độ phát triển hài hòa.
Thế nhưng, câu hỏi đặt ra là, công tác đầu tư hạ tầng đã được quy hoạch và tổ chức thực hiện tốt chưa? Tại sao Việt Nam hiện có 21 sân bay thương mại với 8 sân bay quốc tế nhưng đội tàu bay dân dụng chỉ trên 100 chiếc (của cả hãng hàng không, Vietnamairline, Vietjet, Jestar) đã quá tải? Dựa vào kế hoạch phát triển hạ tầng chưa cập nhật, đánh giá để “duyệt” kế hoạch phát triển của các hãng nội địa, trong khi không thể hạn chế các hãng quốc tế bay tới các sân bay Việt Nam thì liệu có kìm chân các hãng nội địa và “nhường sân” cho các hãng nước ngoài?
[caption id="attachment_24808" align="aligncenter" width="700"]
Nhưng “bỏ quên” việc đầu tư, cho thuê phương tiện vận tải đặc biệt
Dự thảo Nghị định, có lẽ vì mong muốn “hạn chế” đội bay theo cách để dễ quản lý đã bỏ quên một loại hình kinh doanh hàng không khác khá phổ biến trên thế giới là đầu tư, cho thuê máy bay mà Công ty cổ phần cho thuê máy bay Việt Nam (VALC) là ví dụ điển hình.
Những máy bay mua có thể để hoán đổi cho những máy bay cũ hơn, kém hiện đại hơn đang khai thác chứ không chỉ bổ sung thêm vào đội tàu bay. Nhất là khi việc mua sắm máy bay hiện không chỉ dừng ở việc khai thác trong nước mà còn là tài sản để góp vốn, hình thành các liên doanh hàng không khai thác ở nước ngoài, chuyển cho các hãng hàng không này mua, thuê lại.
Điều đáng nói là, một số doanh nghiệp kinh doanh hàng không cho biết là họ chỉ biết đến dự thảo Nghị định trên các phương tiện thông tin đại chúng, khi chúng đã được trình Chính phủ xin ý kiến của các bộ ngành. Thực tế này đã làm hẹp đi cơ hội góp ý của các doanh nghiệp – những đối tượng điều chỉnh của chính Nghị định này. Trong khi Khoản 2, điều 101, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã quy định rõ: “trong quá trình soạn thảo, bộ, cơ quan ngang bộ phải lấy ý kiến đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; tổng hợp, nghiên cứu, giải trình tiếp thu các ý kiến góp ý”.
Phải khẳng định rằng, áp lực đặt ra cho cơ quan soạn thảo dự thảo Nghị định cho loại hình kinh doanh này là không hề nhỏ vì vừa phải chặt chẽ do liên quan tới an ninh, an toàn, sinh mạng của hành khách, vừa phải hài hòa với các quy định thông lệ quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế ICAO và Hiệp hội Hàng không quốc tế – IATA.
Chính vì vậy, văn bản dưới luật quan trọng này cần phải được góp ý rộng rãi, xem xét thấu đáo, minh định được các điều kiện gia nhập thị trường; có độ mở để bao quát được các xu hướng phát triển và nhất là phải cụ thể hóa được cam kết của Thủ tướng Chính phủ trong việc tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát triển và hội nhập. Đây cũng là điều mà các nhà đầu tư kỳ vọng để lĩnh vực hàng không nói riêng thực sự “mở cửa bầu trời”.
Theo DĐDN