Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020

Trong báo cáo công bố tháng 5/2019, Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) dự báo sản lượng gạo toàn cầu niên vụ 2019/20 sẽ giảm nhẹ do Trung Quốc và Ấn Độ. Trái lại, tiêu thụ sẽ tiếp tục tăng, nhất là tại Châu Phi cận Sahara, nơi mà người tiêu dùng bị hấp dẫn bởi giá gạo Châu Á rẻ, và cũng do dân số tăng.

Thương mại gạo thế giới sẽ gần cao kỷ lục, và Ấn Độ tiếp tục giữ vị trí nước xuất khẩu nhiều gạo nhất. Tồn trữ gạo toàn cầu sẽ vẫn tăng, trong đó Trung Quốc chiếm 68% tổng tồn trữ toàn cầu. Tuy nhiên, mức tăng tồn trữ của cả thế giới nói chung và Trung Quốc nói riêng đều chậm nhất trong vòng một thập kỷ.

Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020 - Ảnh 1.

Sản lượng, diện tích và năng suất lúa gạo trên toàn cầu năm 2019/20 dự báo đều giảm so với mức kỷ lục của năm trước, nhưng vẫn cao hơn so với năm 2017/18, trong đó giảm mạnh nhất sẽ tập trung vào Trung Quốc và Ấn Độ, nơi cả diện tích trồng và năng suất dự báo sẽ đều giảm. Diện tích và năng suất của Mỹ dự báo cũng sẽ đi xuống. Trái lại, những nước có sản lượng tăng mạnh nhất sẽ là Thái Lan và Lào, cùng xu hướng tăng sẽ có Bangladesh, Indonesia, Myanmar và Việt Nam.

Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020 - Ảnh 2.

Tiêu thụ gạo thế giới dự báo sẽ tăng 1%, trong đó thêm nhiều nhất ở Ấn Độ và Trung Quốc. Sử dụng gạo làm lương thực chiếm phần lớn tổng tiêu thụ. Tại một số khu vực, nơi tiêu thụ gạo trung bình người nhìn chung đã ở mức cao, nhất là tại Châu Á, người dân giảm dùng gạo trong các bữa ăn (ví dụ như tại Hàn Quốc, Nhật Bản). Trái lại, ở nhiều nước Châu phi, tiêu thụ gạo vẫn tiếp tục tăng, nhất là ở các khu vực đô thị.

Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020 - Ảnh 3.

Nguồn cung gạo toàn cầu dự báo sẽ cao hơn chút ít so với tiêu thụ, do đó tồn trữ cuối vụ 2019/20 trên toàn cầu sẽ tăng nhẹ - là lần đầu tiên trong vòng 13 năm tồn trữ không tăng mạnh. Trung Quốc dự báo sẽ chiếm gần 70% tổng tồn trữ gạo thế giới. Tồn trữ của nước này dự báo sẽ chỉ tăng 2 triệu tấn, mức tăng thấp nhất trong vòng một thập kỷ, do sản lượng sụt giảm, xuất khẩu gia tăng và Chính phủ liên tiếp mở thầu bán gạo cũ. Dự trữ gạo của Ấn Độ dự báo sẽ tăng và vượt xa so với mức dự trữ đệm cần thiết, do đó tăng được lượng dư thừa dành cho xuất khẩu.

Dự trữ gạo của Chính phủ Thái Lan giảm, nhưng dự trữ của lĩnh vực tư nhân dự báo sẽ tăng nhẹ trong bối cảnh cạnh tranh khốc liệt trên thị trường xuất khẩu. Dự trữ của Philippines dự báo sẽ tăng do được mùa, trong khi đó dự trữ của hai nước sản xuất lớn thứ 3 và 4 thế giới – Indonesia và Bangladesh) dự báo sẽ giảm nhẹ nhưng vẫn đủ để họ chỉ cần nhập khẩu khối lượng nhỏ. Dự trữ cuối vụ ở Mỹ dự báo tiếp tục tăng nhưng với tốc độ chậm lại. Dự trữ của Mỹ dự báo sẽ đạt mức cao nhất kể từ niên vụ 1985/96.

Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020 - Ảnh 4.

Thương mại gạo thế giới trong năm 2020 dự báo sẽ tăng 3% lên 48 triệu tấn, tương đương năm 2017. Nhu cầu nhập khẩu cao nhất đến từ Châu Phi cận Sahara và Trung Đông, trong khi nhập khẩu của khu vực Đông Nam Á dự báo sẽ giảm. Ấn Độ tiếp tục là nước xuất khẩu lớn nhất thế giới, tiếp đến là Thái Lan, Việt Nam và Pakistan. Trong khi đó, Trung Quốc dự báo sẽ duy trì xu hướng tăng xuất khẩu mặc dù vẫn là nước nhập khẩu hàng đầu thế giới. Ở bán cầu Tây, xuất khẩu của Mỹ dự báo sẽ tăng, trong khi của Guyana và Uruguay sẽ ổn định như năm trước, còn của Argentina và Brazil sẽ giảm.

Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020 - Ảnh 5.

Dự báo một số thị trường nhập khẩu chủ chốt trong năm 2020

• Trung Quốc được dự báo sẽ nhập khẩu 4 triệu tấn. Cả diện tích và sản lượng lúa của nước này sẽ đều giảm do giá hỗ trợ tối thiểu không thay đổi. Tuy nhiên, tổng cung vẫn tăng so với năm trước do lượng tồn trữ đầu vụ (trong kho dự trữ tạm thời của Chính phủ) tăng. Nước này sẽ tiếp tục nhập khẩu gạo chủ yếu từ các nước láng giềng.

• Philippines dự báo sẽ giảm 100.000 tấn nhập khẩu xuống 2,7 triệu tấn do lượng dự trữ còn nhiều trong khi sản lượng tăng lên. Nước này đã dỡ bỏ hạn chế khối lượng nhập khẩu gạ và thay vào đó bằng thuế, theo đó ưu đãi thuế khi nhập từ các nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Tiêu thụ gạo của Philippines dự báo sẽ tăng do nguồn cung trong nước dồi dào và gạo nhập khẩu giá tương đối rẻ cũng sẵn có trên thị trường.

• Nigeria dự báo sẽ có nhu cầu nhập khẩu tăng 200.000 tấn lên 2,4 triệu tấn, do cần thêm gạo đồ, mặc dù sản lượng trong nước cũng tăng nhẹ. Với xu hướng đô thị hóa và dân số tăng nhanh, nhu cầu gạo đồ nhập khẩu vào nước này tiếp tục tăng. Mặc dù Chính phủ đã hạn chế sử dụng ngoại hối để nhập khẩu gạo, song xu hướng trung chuyển gạo nhập khẩu từ các nước láng giềng vẫn tiếp diễn.

• Liên minh Châu Âu dự báo sẽ vẫn nhập khẩu 2 triệu tấn gạo trong bối cảnh sản lượng tăng nhẹ nhưng tiêu thụ cũng tăng chậm. Nhập khẩu từ Campuchia và Myanmar mấy năm gần đây tăng do sáng kiến Mọi thứ trừ vũ khí. Tháng 1/2019, Liên minh Châu Âu áp thuế nhập khẩu đối với gạo nhập khẩu từ cả 2 nước này, dự kiến khối lượng gạo nhập khẩu chịu thế sẽ giảm nhẹ trong năm 2020.

• Bờ Biển Ngà dự báo sẽ vẫn nhập khẩu 1,6 triệu tấn gạo do tiêu thụ tăng bù lại cho sản lượng tăng. Nhu cầu nhập khẩu vẫn mạnh đối với các chủng loại gạo xay và gạo tấm Châu Á (Châu Á cung cấp gần như toàn bộ gạo nhập khẩu vào nước này).

• Saudi Arabia dự báo sẽ tăng nhập khẩu thêm 25.000 tấn lên 1,4 triệu tấn bởi dự kiến khách du lịch tăng sẽ bù lại cho số lao động nước ngoài sụt giảm. Gạo nhập khẩu chủ yếu là loại basmati, nhưng cũng có một số gạo đồ hạt dài và gạo xay hạt vừa.

• Senegal dự kiến sẽ tăng nhập thêm 50.000 tấn lên 1,3 triệu tấn, phản ảnh nhu cầu gạo tấm liên tiếp tăng, nhất là từ các nhà cung cấp Châu Á. Senegal là nước nhập khẩu gạo tấm lớn nhất thế giới, và gần đây đã đưa ra những chính sách hạn chế khối lượng nhập khẩu gạo tấm.

• Iran dự kiến sẽ nhập khẩu 1,2 triệu tấn, bằng năm trước, do nhu cầu tăng nhưng sản lượng cũng tăng. Nước này đã rất nỗ lực để tự cung tự cấp, mặc dù vẫn phải nhập khẩu gạo basmati để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

• Malaysia dự báo sẽ vẫn nhập khẩu 1 triệu tấn giữa bối cảnh tiêu thụ chỉ tăng nhẹ.

• Indonesia dự báo sẽ giữ lượng nhập khẩu ở 500.000 tâns do sản lượng tăng làm giảm phần nào nhu cầu nhập khẩu. Tiêu thụ giảm nhẹ bởi người tiêu dùng tiếp tục chuyển sang tăng sử dụng mì ăn liền và những thực phẩm khác làm từ lúa mì.

• Bangladesh dự báo sẽ giảm 100.000 tấn cuống 200.000 tấn gạo nhập khẩu do diện tích trồng lúa tăng kéo sản lượng tăng. Mức tăng tiêu thụ gạo sẽ ở mức vừa phải vì người dân cũng tăng cường sử dụng lúa mì – dần thay thế cho lúa gạo.

Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020 - Ảnh 6.

Dự báo những nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới trong năm 2020

• Ấn Độ được nhiều khả năng sẽ tăng xuất khẩu thêm 500.000 tấn lên 12,5 triệu tấn. Tổng cung dự báo sẽ tăng lên vì lượng tồn trữ cao nhất trong vòng gần 6 năm bù lại cho sản lượng giảm 1%. Mặc dù xuất khẩu và tiêu thụ đều tăng, tồn trữ cuối vụ dự báo vẫn tăng nhẹ, nên lượng dự trữ đệm sẽ cao hơn mức cần thiết. Ấn Độ được dự báo sẽ là nước xuất khẩu gạo lớn nhất năm thứ 9 liên tiếp, những loại gạo xuất chủ yếu là gạo basmati thơm, gạo đồ và gạo trắng chất lượng trung bình.

• Thái Lan được dự báo sẽ giữ mức xuất khẩu ở 10 triệu tấn như năm trước. Mặc dù sản lượng gạo cao kỷ lục song xuất khẩu của nước này sẽ bị mất bớt thị phần do sự cạnh tranh tăng lên từ phía Ấn Độ và Trung Quốc. Gạo xuất khẩu của Thái Lan sẽ tiếp tục là các loại hương nhài thơm, đồ và trắng chất lượng trung bình.

• Việt Nam cũng sẽ duy trì mức xuất khẩu ở 6,5 triệu tấn do sản lượng tăng, bất chấp sự cạnh tranh cũng tăng. Mặc dù Trung Quốc dự báo sẽ vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của gạo Việt, song Trung Quốc cũng sẽ ngày càng cạnh tranh mạnh mẽ hơn với gạo xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường Châu Phi. Triển vọng xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines sẽ vẫn thuận lợi, và tiếp tục đa dạng hóa các thị trường tiêu thụ, với các loại gạo chủ yếu là hương nhài, nếp, gạo trắng hạt dài và hạt vừa.

• Pakistan sẽ xuất khẩu 4 triệu tấn, tương tự như năm trước, giữa bối cảnh sản lượng tăng bù lại cho tồn trữ đầu vụ giảm. Pakistan thường xuất khẩu gạo trắng và một ít gạo basmati thơm, cạnh tranh chủ yếu với Ấn Độ. Các thị trường tiêu thụ chủ yếu là Châu Phi, Trung Đông và các nước láng giềng.

• Mỹ dự kiến sẽ tăng xuất khẩu thêm 250.000 tấn lên 3,3 triệu tấn do tồn trữ gối vụ cao và lượng cung trong nước dồi dào cũng như giá xuất khẩu cạnh tranh tốt, đủ sức tăng thị phần ở Mỹ Latinh. Mỹ xuất khẩu chủ yếu là gạo hạt tròn và gạo xay sang bán cầu Tây, một phần sang Trung Đông, và cũng xuất khẩu gạo trắng hạt vừa sang các thị trường Đông Á.

• Trung Quốc sẽ tăng xuất khẩu thêm 700.000 tấn lên 3,2 triệu tấn do lượng tồn trữ từ những vụ trước còn nhiều, giá bán rẻ. Những năm gần đây, Trung Quốc tăng cường xuất khẩu gạo rẻ, không chỉ sang các nước láng giềng ở Đông Á mà tới cả Châu Phi và Trung Đông. Đây là khối lượng xuất khẩu nhiều nhất kể từ 1998.

• Myanmar dự báo sẽ vẫn xuất khẩu 2,8 triệu tấn gạo. Nước này cung cấp chủ yếu cho các thị trường láng giềng và một ít sang Liên minh Châu Âu và Châu Phi. Ảnh hưởng tiêu cực từ việc Liên minh Châu Âu áp thuế đối với gạo Myanmar sẽ được bù đắp bởi hạn ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc được tăng lên.

• Campuchia dự kiến sẽ vẫn xuất khẩu 1,3 triệu tấn nhờ sản lượng tăng, tiếp tục đón nhận nhu cầu từ các nước láng giềng và tăng cường thâm nhập vào Trung Quốc.

Dự báo toàn cảnh thị trường lúa gạo thế giới năm 2019/2020 - Ảnh 7.

 

Theo Trí thức trẻ/USDA

Hạ tầng giao thông 2026: Cải cách PPP và bùng nổ lưu lượng mở đường cho trái phiếu doanh nghiệp

Trong bối cảnh doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp vận hành hạ tầng tiếp tục tăng trưởng tích cực trong 9 tháng 2025, báo cáo cập nhật ngành của VIS Rating nhận định, năm 2026 sẽ là giai đoạn tăng tốc mới khi các cải cách chính sách về PPP, sự bùng nổ lưu lượng giao thông và nhu cầu đầu tư hạ tầng gia tăng cùng lúc. Song song với đó, những thay đổi trong hạn mức tín dụng ngân hàng dự kiến sẽ đẩy nhanh quá trình dịch chuyển sang kênh trái phiếu doanh nghiệp, đặc biệt đối với các dự án PPP trong lĩnh vực đường bộ.

Lễ hội Di sản cà phê toàn cầu

Lần đầu tiên được tổ chức, Lễ hội Di sản cà phê toàn cầu 2025 quy tụ những chuyên gia, nghệ nhân, doanh nghiệp hàng đầu thế giới để định hình lại tương lai của ngành cà phê Việt Nam theo mô hình bền vững, sáng tạo và mang lại giá trị kinh tế cao, từ đó tạo ra một điểm hẹn quốc tế thường niên, thu hút đầu tư, thúc đẩy du lịch và mở đường cho các sáng kiến hợp tác toàn cầu, tiêu biểu là việc hình thành Liên minh Cà phê Việt Nam – Thế giới (GCA).

60.000 học sinh lập kỷ lục kép Việt Nam và thế giới với màn đồng diễn võ nhạc Vovinam ấn tượng

Chương trình đồng diễn võ nhạc Vovinam với sự tham gia của 60.000 học sinh từ 165 điểm trường tại Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức xác lập kỷ lục kép Việt Nam và thế giới cho nội dung “Chương trình đồng diễn võ nhạc Vovinam trực tiếp kết hợp trực tuyến tại các điểm trường có số lượng học sinh tham gia đông nhất Việt Nam và thế giới”.

Nestlé MILO cùng dàn sao Việt bất ngờ “đổ bộ” tại các trường TP.HCM, tiếp sức học sinh trước kỷ lục đồng diễn Vovinam

Chỉ còn vài ngày trước màn đồng diễn võ nhạc Vovinam xác lập kỷ lục kép thế giới, 50.000 học sinh TP.HCM đang sôi động chuẩn bị cho sự kiện với tinh thần hừng hực, quyết tâm. Để cổ vũ cho các bạn, Sở Giáo dục & Đào tạo TP.HCM, liên đoàn Vovinam Việt Nam, Nestlé MILO cùng dàn sao Việt như ca sĩ Orange, Kay Trần, S.T Sơn Thạch, Ái Phương và Duy Khánh đã bất ngờ đổ bộ giao lưu tại các trường, tiếp lửa tinh thần cho các em trước sự kiện lớn.

Hợp tác thúc đẩy tăng trưởng bền vững và hiện thực hóa mục tiêu Net Zero tại Việt Nam

Nestlé Việt Nam và Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ Nông nghiệp và Môi trường (NN&MT) chính thức ký kết Bản ghi nhớ Hợp tác nhằm hỗ trợ Việt Nam chuyển dịch sang mô hình kinh tế tuần hoàn và phát thải thấp. Nội dung hợp tác tập trung vào việc thúc đẩy nông nghiệp bền vững, giảm phát thải khí nhà kính góp phần tăng tốc hiện thực hóa mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero) của quốc gia.

Nâng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Trong dòng chảy hội nhập, nguồn nhân lực không chỉ cần tri thức chuyên môn mà còn phải mang theo bản lĩnh, văn hóa nghề nghiệp và khả năng thích ứng. Những chia sẻ từ các doanh nghiệp, nhà quản lý và chuyên gia giáo dục cho thấy bức tranh đào tạo nhân lực hôm nay đang đứng trước yêu cầu đổi mới sâu sắc, nhằm khắc phục những “độ vênh” giữa giảng đường và thị trường lao động, đồng thời xây dựng một thế hệ trẻ có đủ nền tảng, kỹ năng và thái độ để vươn lên trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Video