Cho vay mua xe máy mang lại lợi nhuận khổng lồ cho các ông lớn

Ba công ty tài chính tiêu dùng hàng đầu Việt Nam là HD Saison, FE Credit, và Home Credit có các cách thức tiếp cận thận trọng và cho vay khác nhau.

Theo đánh giá của Nielsen, mảng tài chính tiêu dùng dự kiến sẽ tăng trưởng kép (CAGR) hằng năm là 20%. Danh mục sản phẩm tài chính của các công ty tài chính hiện nay tập trung vào cho vay mua xe máy; cho vay mua hàng tiêu dùng gia dụng; các khoản vay khác.
[caption id="attachment_100380" align="aligncenter" width="640"] Tổng danh mục cho vay của top 3 công ty tài chính tiêu dùng hàng đầu tại Việt Nam (tỷ đồng)[/caption]

Trong báo cáo phân tích về thị trường cho thuê tài chính của Công ty Chứng khoán Bản Việt (VCSC), công ty này cho hay đã được HD Saison cung cấp số liệu hiện có 36% thị phần trong mảng cho vay mua xe máy. HD Saison hiện đang là công ty dẫn đầu thị trường trong thị trường cho vay mua xe máy, thường được coi là mảng cho vay an toàn nhất.

Tuy nhiên, số liệu của Home Credit cung cấp đặt thị phần của HD Saison trong mảng này tại mức 33%.

Dự kiến năm 2018, HD Saison đạt con số lợi nhuận ở mức ngàn tỷ đồng. Giai đoạn 2014 – 2016, HD Saison có lợi nhuận xấp xỉ 300 tỷ mỗi năm, năm 2017 ước đạt gấp hơn 2 lần con số đó. Trong khi FE Credit có lợi nhuận khủng vượt qua cả ngân hàng mẹ VPBank, chiếm 51% trong tổng số lợi nhuận 8100 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế của toàn ngân hàng này năm 2017.

Đối với cho vay mua hàng tiêu dùng gia dụng, HD Saison cho biết giữ vị trí thứ hai trong mảng này với “30% thị phần”.  Tuy nhiên, số liệu của Home Credit đặt thị phần này của HD Saison ở mức 9%, xếp xa ở vị trí thứ ba.

HD Saison có dư nợ khoản vay thấp hơn nhiều trong khi số lượng khách hàng tương tự như FE Credit và Home Credit, tương ứng với quy mô nhỏ của từng khoản vay trên khách hàng.

Hiện nay dư nợ cho vay trung bình mỗi khách hàng tại HD Saison là 8,6 triệu đồng, khá thấp so với trung bình ngành 15 - 20 triệu đồng.

Hệ thống phân phối là rất quan trọng trong ngành tài chính tiêu dùng, phần đông khách hàng là công nhân, người vừa tốt nghiệp phổ thông hoặc sinh viên đại học.

Riêng HD Saison, là công ty xếp thứ 3 về dư nợ, đã có 11.502 điểm giao dịch (POS) trên khắp 63 tỉnh/thành của Việt Nam, với khoảng 3,6 triệu khách hàng vào cuối năm 2017.

POS của HD Saison so với các công ty cùng ngành

Từ trái sang phải: Quy mô khoản vay (triệu đồng) và thời hạn khoản vay (tháng) của HD Saison

Khoản vay theo từng tháng và tăng trưởng khách hàng theo từng khoản vay của HD Saison.

[caption id="attachment_100384" align="aligncenter" width="640"] Độ tuổi khách hàng và Khách hàng tính theo thu nhập (triệu đồng) tại HD Saison.[/caption]

Tính theo quy mô khoản vay, FE Credit cao hơn nhiều so với HD Saison với tổng cho vay khách hàng đạt 44,8 nghìn tỷ đồng so với chỉ 9,4 nghìn tỷ đồng trong năm 2017. Tăng trưởng cho vay tại HD Saison giảm trong năm 2017 chỉ còn 17,3% so với 71,5% năm 2016.

[caption id="attachment_100385" align="aligncenter" width="640"] So sánh lợi nhuận tài sản sinh lãi và So sánh chi phí huy động vốn giữa các công ty.[/caption]

Hình trên cho thấy lợi suất tại HD Saison luôn cao hơn so với FE Credit, dù 41% dư nợ tín dụng của HD Saison là cho vay để mua xe máy. Theo VCSC, điều này chỉ có thể giả định rằng HD Saison cho vay để mua hàng gia dụng và cho vay tiền mặt đã bù đắp cho mảng xe máy, vốn được biết là khá cạnh tranh.

Trong 2 năm qua, chi phí huy động của HD Saison diễn biến trái chiều so với FE Credit, nguyên nhân là FE Credit có quy mô lớn tại giai đoạn sớm hơn nhiều so với HD Saison.

[caption id="attachment_100386" align="aligncenter" width="640"] So sánh NIM và nợ xấu giữa FE Credit và HD Saison[/caption]

HD Saison có dư nợ khoản vay thấp hơn nhiều, trong khi số lượng khách hàng tương tự như FE Credit và Home Credit, tương ứng với quy mô nhỏ của từng khoản vay trên khách hàng.

Lợi thế về quy mô trong việc khai thác một lượng lớn huy động nợ bán buôn được phản ánh rõ ràng trong chi phí cấp vốn của FE Credit, trong khi vẫn chưa rõ ràng với HD Saison.

[caption id="attachment_100387" align="aligncenter" width="640"] So sánh xóa nợ gộp giữa FE Credit và HD Saison[/caption]

Hình trên cho thấy HD Saison thận trọng hơn trong mảng bán chéo cho vay tiền mặt. Cụ thể, HD Saison duy trì tỷ lệ xóa nợ tương đối thấp trong 5 năm, còn FE Credit trong phần phân tích này bị lấy mẫu không đầy đủ.

[caption id="attachment_100388" align="aligncenter" width="640"] (Nợ nhóm 2 + Nợ xấu và Xóa nợ) /Tổng tín dụng của HD Saison và (Nợ nhóm 2 + Nợ xấu và Xóa nợ) /Tổng tín dụng của FE Credit[/caption]

Hình dưới đây là điểm trừ đối với HD Saison bởi quy mô lớn, đến từ dư nợ tín dụng lớn của FE Credit. HD Saison tập trung vào các khoản cho vay nhỏ nên tỷ lệ chi phí/thu nhập khá cao trong khi FE Credit tập trung vào các khoản vay tiền mặt có biên lợi nhuận cao hơn (74% dư nợ tín dụng) bằng cách tích cực bán chéo hoặc sử dụng dự liệu mua ngoài để cải thiện tình hình cho vay đã tạo đủ tín dụng để giảm chi phí hoạt động.

[caption id="attachment_100389" align="aligncenter" width="640"] So sánh CIR và So sánh Chi phí hoạt động/Nhân viên, triệu VND (2017)[/caption]

VCSC cũng lưu ý rằng báo cáo tài chính của HD Saison minh bạch hơn so với FE Credit. FE Credit cũng tỏ ra vượt trội về tỷ lệ chi phí/thu nhập.

Về cơ cấu chi phí hoạt động của HD Saison và FE Credit, tiền lương và phụ cấp chiếm khoảng một nửa tổng chi phí.

Trong khi HD Saison phân bổ 26,1% tổng chi phí hoạt động dành cho hoa hồng đại lý, 3,2% dành cho công ty thu hồi nợ bên ngoài, và 16,6% là “các khoản khác”, thì tại FE Credit, “các khoản khác” có tỷ lệ lớn hơn nhiều và có ý kiến cho rằng điều này kém minh bạch. “Các khoản khác” tại FE Credit gồm 18 khoản mục nhỏ với giá trị từ 3,2 triệu đồng đến 228 triệu đồng như chi phí truyền thông, thuế, tư vấn, tiếp thị và khuyến mãi.

Về tổng chi phí hoạt động/số nhân viên, HD Saison có hiệu suất cao hơn với 211 triệu đồng/nhân viên, thấp hơn 25,3% so với FE Credit và 41,8% nếu không tính hoa hồng cho đại lý.

Theo Ngân Giang Infonet

Tags:

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế, hướng tới đột phá chiến lược

Ngày 1/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam đã ký Quyết định số 114/QĐ-BCĐTTTC, phê duyệt Kế hoạch hành động triển khai xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam. Đây được xem là những bước đi chiến lược, mang tầm nhìn dài hạn nhằm đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ tài chính khu vực và toàn cầu.

Tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm nhân thọ

Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững (2015- 2021), từ năm 2022 thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam có dấu hiệu chững lại và suy giảm rõ rệt. Đặc biệt, trong các năm 2023 và 2024, phí bảo hiểm giảm lần lượt 11,9% và 5,7%, trong khi số lượng hợp đồng giảm 10,7% và 5,2% so với năm liền trước. Điều này cho thấy thị trường đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như suy thoái kinh tế, thay đổi trong hành vi tiêu dùng, đặc biệt là mất niềm tin từ khách hàng sau các vụ việc tiêu cực.

Duy trì lãi suất ở mức thấp quá lâu sẽ tiềm ẩn rủi ro

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động và Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025, điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ lãi suất đang được kỳ vọng phát huy vai trò hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi

Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) của Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh từ định hướng phát triển kinh tế của thành phố gắn liền với phát triển thị trường tài chính là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, gắn với các cơ chế chính sách đặc thù, tầm nhìn dài hạn. Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Hồng Văn, Phó tổng giám đốc Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước TP. Hồ Chí Minh (HFIC) đã có những chia sẻ với phóng viên.

Video