“Cú hích” phát triển toàn diện ngành sữa Việt
Theo số liệu của Cục Hải quan, kim ngạch nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa 7 tháng đầu năm 2025 đạt trên 858,08 triệu USD, tăng 35% so với 7 tháng đầu năm 2024. Riêng tháng 7/2025 kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này đạt 129,21 triệu USD, giảm 13,7% so với tháng 6/2025 nhưng tăng 27,3% so với tháng 7/2024.
Nguyên nhân chủ yếu là đàn bò sữa trong nước nhỏ, năng suất thấp, chi phí chăn nuôi cao, công nghệ bảo quản và chế biến chưa đồng bộ khiến sản phẩm nội địa chưa đủ cả chất và lượng cho nhu cầu thị trường.
Cùng với đó, việc không kiểm soát chặt chẽ chất lượng sữa cũng khiến người tiêu dùng hoang mang. Khi niềm tin người tiêu dùng bị lung lay, chỉ có minh bạch nguồn gốc và kiểm soát chất lượng nghiêm ngặt mới giúp doanh nghiệp lấy lại uy tín.
![]() |
Trước tình hình đó, các doanh nghiệp nội như Vinamilk, TH True Milk, Mộc Châu… đã đẩy nhanh đầu tư trang trại, nhập giống bò năng suất cao và áp dụng hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử.
Theo các số liệu thống kê, tiêu thụ bình quân sữa của người Việt hiện ở mức khoảng 30 lít/người/năm, vẫn thấp hơn rất nhiều so với mức trên 100 lít của các nước phát triển, vì vậy dư địa tăng trưởng còn rất lớn. Theo một báo cáo từ IMARC, dự báo thị trường sữa và sản phẩm từ sữa của Việt Nam sẽ tăng trưởng mạnh, và dự kiến đạt 13,37 tỷ USD vào năm 2033, với tốc độ tăng trưởng trung bình CAGR khoảng 9,5% .
Để ngành sữa Việt Nam tăng trưởng bền vững cần có những giải pháp đồng bộ. Đó là: Tăng đàn bò sữa và vùng nguyên liệu tập trung; Hỗ trợ tài chính để mở rộng đàn, nhập giống chất lượng cao; Quy hoạch vùng chăn nuôi quy mô gắn với chế biến và phòng chống bệnh; Ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi và chế biến; Áp dụng cảm biến và AI theo dõi sức khỏe đàn. Cùng với đó, đầu tư dây chuyền chế biến hiện đại cho sản phẩm giá trị gia tăng như sữa công thức, phô mai; tăng tính minh bạch và nâng cao kiểm soát chất lượng; truy xuất nguồn gốc điện tử toàn chuỗi; tăng kiểm định độc lập cả với hàng nhập khẩu và nội địa, công khai kết quả. Đồng thời, phát triển thị trường nội địa và xuất khẩu; truyền thông thương hiệu sữa Việt gắn liền chất lượng và an toàn; mở rộng xuất khẩu sang ASEAN, Trung Quốc và các quốc gia đang thiếu nguồn cung.
Nếu thực hiện đồng bộ các giải pháp về giống, công nghệ, chính sách và thị trường, Việt Nam hoàn toàn có khả năng chuyển từ nhập khẩu phụ thuộc sang tự chủ một phần lớn nguồn sữa và từng bước hướng đến xuất khẩu “Made in Vietnam” ra quốc tế.