Ưu đãi đầu tư của Việt Nam và các nước ASEAN
LTS: Từ 1/7/2015, Luật đầu tư sửa đổi sẽ có hiệu lực. Giới thiệu bài viết của ông Nguyễn Nghĩa Hiển – Viện Nghiên cứu Lập pháp – Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân tích các qui định đối với ưu đãi đầu tư ở một số quốc gia trong khu vực ASEAN để từ đó, độc giả có cái nhìn so sánh giữa pháp luật đầu tư của nước ta với các nước trong khu vực về ưu đãi đầu tư.
[caption id="attachment_4009" align="aligncenter" width="800"]
Nghiên cứu pháp luật đầu tư ở một số nước trên thế giới cho thấy căn cứ vào nội dung đạo luật của các nước, có thể chia hệ thống pháp luật về đầu tư của các nước thành 3 nhóm: Thứ nhất, nhóm các nước có một đạo luật điều chỉnh toàn diện các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư (Canada, Indonexia, Đức và Việt Nam); Thứ hai, nhóm các nước có một hoặc một số đạo luật khuyến khích vào bảo hộ đầu tư (Hàn Quốc, Malaysia, Philippine….); Thứ ba, nhóm các nước không có đạo luật riêng biệt về đầu tư nhưng có chính sách khuyến khích nhà đầu tư tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế ( Nhật, Anh, Hoa Kỳ, Thái Lan…). Để có được cái nhìn so sánh với các quốc gia trong cùng khu vực, bài viết cung cấp thông tin về qui định pháp lý về ưu đãi đầu tư ở 2 quốc gia: Philippine và Thái Lan. Đây cũng là 2 quốc gia đại diện cho 2 nhóm tuy không có đạo luật điều chỉnh toàn diện các vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư nhưng các chính sách ưu đãi đầu tư rất hấp dẫn.
Chính sách đầu tư của Philippines
Chính sách đầu tư của Philippines bao gồm cả chế độ đối với đầu tư trong nước và đầu tư từ nước ngoài. Điều này được thể hiện rõ ràng trong Hiến pháp năm 1987. Tuy nhiên, không phải đến năm 1987, nước này mới có chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư cơ bản ra đời năm 1961 đã qui định rõ các ưu đãi về thuế cho việc nhập khẩu máy móc và phụ tùng khác cho công nghiệp cơ bản. Tiếp sau đó là sự thành lập của Ban đầu tư (BOI) – cơ quan chịu trách nhiệm cấp các ưu đãi đầu tư cho các ngành công nghiệp xuất khẩu có định hướng và các khu công nghiệp và các khu vực tiến hành hoạt động xuất khẩu. Trong suốt những năm sau, đặc biệt là sau năm 1981, nhiều văn bản pháp luật đã được hợp nhất trong Luật đầu tư Omnibus. Đặc biệt, sau năm 1987, Chính phủ bắt đầu tự do hóa các luật lệ và qui tắc về sở hữu nước ngoài bằng việc vận động thông qua Luật đầu tư nước ngoài 1981. Ngày nay, bên cạnh nỗ lực cải cách hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư, Chính phủ Philippines còn tiến hành cải thiện thủ tục quan liêu nhằm giảm bớt các chi phí kinh doanh. Đồng thời, để đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh của Philippines được thành lập và đưa vào hoạt động với đầy đủ và hài hòa các yêu cầu đăng ký của SSS, Philhealth, Pag-ibig và cục thuế. Qui trình đăng ký tên DN cũng được đơn giản hóa qua hệ thống đăng ký kinh doanh trực tuyến (BNRS). Phù hợp với chính sách thu hút đầu tư nêu trên, hệ thống pháp luật về đầu tư của Philippines hiện nay bao gồm:
Lệnh số 226 – Luật đầu tư Omnibus năm 1987; Luật số 7042- Luật đầu tư nước ngoài; Luật số 7918- Sửa đổi điều 39 của lệnh 226 (ban hành chương trình giảm thuế hoặc các ưu đãi liên quan đến thuế khác); 26 luật chuyên ngành khác có qui định nhằm thu hút FDI… Báo cáo hàng năm của BOI cụ thể hóa các ưu đãi đầu tư được qui định trong Luật đầu tư Omnibus 1987.
Ngoài ra, nếu đăng ký ở vùng kém phát triển, DN được hưởng những ưu đãi sau: “Các DN đã đăng ký, bất kể là DN trong nước hay nước ngoài đóng trên địa bàn khu vực kém phát triển thỏa mãn các tiêu chí như: bình quân đầu người trên tổng sản phẩm quốc nội thấp, mức đầu tư thấp, tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm cao, trình độ phát triển cơ sở hạ tầng thấp bao gồm cả khả năng vào các trung tâm phát triển ở thành thị thì được hưởng các ưu đãi như sau: (a) ưu đãi cho người tiên phong, (b) ưu đãi đối với cơ sở hạ tầng cần thiết và các thiết bị công cộng” (điều 33). Như vậy, ngoài phần lớn các ưu đãi về thuế và nghĩa vụ thuế, pháp luật Philippines còn đưa ra các ưu đãi khác như: ưu đãi về thủ tục hải quan, về sử dụng các công cụ ủy thác, về quyền ra vào hệ thống kinh doanh và kho hay ưu đãi dành cho người tiên phong, cho cơ sở hạ tầng cần thiết và thiết bị công cộng (đối với các vùng kém phát triển). Điều này khẳng định tính linh hoạt trong chính sách ưu đãi đầu tư của Philippines.
Những ưu đãi đặc thù cho DN FDI của Thái Lan”
Nhờ có những chính sách hợp lý mà những thập kỷ gần đây, Thái Lan trở thành điểm đến cho đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Thái Lan đang được đánh giá là một trong những quốc gia thành công trong việc thu hút đầu tư nước ngoài. Những thành tựu có được là nhờ vào cải cách pháp luật từ rất sớm ở nước này. Trong khi khủng hoảng kinh tế diễn ra trong khu vực Asean những năm 1997-1998 thì Thái Lan đã cùng với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF) xây dựng chương trình cải cách kinh tế hướng tới việc tạo ra môi trường cạnh tranh và minh bạch hơn cho đầu tư nước ngoài.
Pháp luật năm 1999 qui định việc thành lập của Tòa án về phá sản, cải cách thủ tục phá sản và các thủ tục tịch thu tài sản, và cho phép các chủ nợ theo đuổi việc thanh toán từ bảo lãnh vay vốn. Cũng trong năm 1999, nhiều luật được sửa đổi như: Luật Đất đai, luật Nhà chung cư, luật cho thuê tài sản, đã góp phần tháo bỏ những hạn chế đối với việc sở hữu tài sản của người nước ngoài, thúc đẩy đầu tư từ nước ngoài. Bằng các qui định về hoạt động kinh doanh của người nước ngoài tại Thái Lan, Luật DN nước ngoài (FBA) ban hành năm 1999 đã mở rộng hơn các lĩnh vực kinh doanh cho đầu tư nước ngoài nhưng hạn chế đầu tư ở mức 49%. Bên cạnh đó, một số luật khác có liên quan đến chính sách đầu tư cũng được ban hành, góp phần vào việc thúc đẩy quá trình phát triển đầu tư ở nước này như Luật lao động Alien B.E 2521 (1987) và Luật ưu đãi đầu tư B.E 2520 (1977). Ngày nay, chính sách phát triển kinh tế và đầu tư ở Thái Lan xác định rõ: nước này không hạn chế về cổ phần nước ngoài trong sản xuất; 100% cổ phần nước ngoài được cho phép trong một số ngành nghề dịch vụ và có ít nhất 51% cổ phần sở hữu của người Thái Lan trong các lĩnh vực qui định tại danh mục 1 Luật DN nước ngoài. Trên cơ sở các chính sách như vậy, Thái Lan đã có các qui định pháp luật về đầu tư rất cụ thể trong 02 luật sau:
– Luật ưu đãi đầu tư năm 1977;
– Luật kinh doanh năm 1972
Ngoài các ưu đãi về thuế, Thái Lan vẫn dành mối quan tâm nhất định đến các ưu đãi về con người, đất đai nhằm phục vụ sản xuất. Đặc biệt, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của đất nước, Luật ưu đãi đầu tư đã nêu rõ các ưu đãi đặc biệt dành cho các DN hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu.
Có thể thấy rằng, so với các quốc gia trong khu vực, các qui định của nước ta về ưu đãi đầu tư thể hiện được sự tiến bộ, bắt kịp với các quốc gia trong khu vực. Đây là một trong những tín hiệu đáng mừng bởi đặt trong bối cảnh nước ta đang phải đối mặt với sức cạnh tranh vô cùng lớn từ chính các nước trong khu vực. Do đó, yêu cầu đối với việc hoàn thiện chính sách ưu đãi đầu tư, đảm bảo thống nhất, và linh hoạt trong ưu đãi đầu tư được đặt ra không chỉ đối với nước ta mà với cả các quốc gia trong khu vực. Việc đáp ứng yêu cầu này của Luật Đầu tư 2014 còn phải chờ đến thời điểm Luật có hiệu lực và đi vào vận hành.
Nguyễn Nghĩa Hiển Viện Nghiên cứu Lập pháp Ủy ban Thường vụ Quốc hội
Theo DĐDN