Doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn loay hoay tìm lối
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đa phần là doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc "siêu nhỏ" so với quy mô thế giới. Trên thế giới, doanh nghiệp có doanh số dưới 10 triệu USD được xem là nhỏ; dưới 100 triệu USD được xem là cỡ vừa; còn ở Việt Nam các doanh nghiệp có doanh số siêu nhỏ cỡ vài trăm triệu đồng hay vài tỉ đồng là phần nhiều. Đã vậy, đa số là doanh nghiệp mới, có tính chất gia đình, bạn bè, có thâm niên hoạt động 3-5năm, mà theo thực tế thì có tới hơn 70% các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể “ra đời và chết đi” trong vòng 3-5 năm đầu hoạt động trong điều kiện rất bình thường của nền kinh tế - xã hội.
Từ thực tế tại Việt Nam, các chuyên gia kinh tế tin rằng việc thiếu vốn và lãi suất bất lợi những trở ngại quan trọng nhất đối với khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Như suốt từ năm 2008 đến nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) Việt Nam đã trải qua 5 năm chịu đựng mức lãi suất vay ngân hàng cao khoảng 20%/năm - so sánh với thế giới thì quả là một hiện tượng kinh tế xã hội rất đặc biệt.
Tất cả các doanh nghiệp hoạt động bằng nguồn vốn vay ngắn hạn hay dài hạn từ năm 2008 đến nay đều có nguy cơ đình trệ hoặc phá sản.Đặc biệt là các doanh nghiệp có liên quan đến đầu tư bất động sản với tỷ lệ nợ vay ngân hàng rất lớn so với vốn tự có.
Bên cạnh đó là môi trường pháp lý. Tuy đã các “gói” hỗ trợ pháp lý dành cho doanh nghiệp đã được quy định tại Nghị định 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho DN và Quyết định 585/QĐ-TTg ngày 5/5/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và hàng loạt chính sách tối ưu năm 2016. Tuy nhiên, rất nhiều DN, nhất là DNNVV vẫn rất lúng túng mỗi khi “đụng đến các vấn đề liên quan đến pháp luật, đặc biệt các quy định liên quan đến tổ chức, thực hiện các vấn đề liên quan đến kinh doanh và doanh nghiệp.
Hiện nay, theo thống kê của cơ quan chuyên môn, hoạt động kiểm tra chuyên ngành có tới hơn 300 văn bản, được đánh giá là không rõ ràng, không cụ thể, không nhất quán, thiếu tính tiên lượng, không minh bạch và hiệu quả. Đơn cử, có văn bản yêu cầu kiểm tra 35% lô hàng xuất nhập khẩu trong khi các nước chỉ kiểm tra 5 – 6%,gây tốn kém cho DN.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động chủ yếu dựa vào vốn vay trung và dài hạn của ngân hàng, rất ít vốn chủ sở hữu, thậm trí là không có.Theo báo cáo của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), hiện BIDV có khoảng 94.000 khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chiếm 50% lượng khách hàng của ngân hàng; doanh số vay đạt 150.000 tỷ đồng, chỉ tương đương 33% tổng dư nợ cho vay của ngân hàng này. Đánh giá của ngân hàng này cho rằng hiện nay chỉ mới có khoảng 30% khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được vốn, trong khi khối này chiếm 51% lao động.
Theo TS Cao Sỹ Kiêm, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, khi Việt Nam hội nhập, tham gia vào nền kinh tế thế giới thì cái khó trước tiên của doanh nghiệp vừa và nhỏ chính là vốn. Các doanh nghiệp nước ngoài như Nhật Bản chỉ vay với lãi suất 1% - 2%/năm, ở Việt Nam hiện nay thấp nhất cũng 7% - 8%/năm thì không thể cạnh tranh nổi.
Một vấn đề quan trọng khác, theo ông Giản Tư Trung, Hiệu trưởng trường PACE là “tình trạng doanh nghiệp Việt Nam ít quan tâm đến hội nhập quốc tế. Cụ thể tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam chưa biết đến và hầu như không quan tâm đến Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là 56,8%, con số tương ứng dành cho TPP và WTO lần lượt là 40,9% và 33,4%. 56% doanh nghiệp không biết một trong những nội dung của TPP là cắt giảm thuế suất thuế nhập khẩu giữa các nước thành viên.
Ông Trung cho rằng việc cần làm ngay đầu tiên đối với các doanh nhân, doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa đó là phải thay đổi tư duy trong hội nhập. Doanh nghiệp cần xem ASEAN là thị trường quan trọng không thua Mỹ, Nhật hay EU.
Thứ hai là phải nhạy bén hơn trong tìm kiếm và nắm bắt cơ hội. Loại bỏ được căn bệnh “thích hoành tráng” thì tư duy doanh nghiệp sẽ thoáng hơn trong việc nhận thức cơ hội kinh doanh.
Thứ ba là cải thiện và phát huy năng lực. Áp lực bị “đào thải” trong sân chơi AEC sẽ rất cao nếu doanh nghiệp không chịu cải thiện hoặc cải thiện chưa tới để tăng năng lực cạnh tranh,nhất là quản trị rủi ro trên phạm vi quốc tế.
Thứ tư là làm tốt ngay trên sân nhà. Các doanh nghiệp trong nước có lợi thế là am hiểu địa lý, lối sống, văn hóa tiêu dùng của Việt Nam, vì vậy nên tận dụng lợi thế này để chuẩn bị chu đáo từ sản phẩm, bao bì, mẫu mã, cách thức và thời điểm tung sản phẩm ra thị trường phù hợp để duy trì và củng cố chỗ đứng trên “sân nhà”.
Thứ năm là liên kết phát triển. Các doanh nhân nên học hỏi lẫn nhau về chiến lược cạnh tranh trong kinh doanh, thay vì làm đối thủ nên chăng bắt tay làm đối tác của nhau. Doanh nghiệp cũng cần tăng cường trao đổi, đối thoại với các cơ quan chính phủ, hiệp hội để kịp nắm bắt những thông tin.
Cùng với việc hiểu đầy đủ về xu thế, doanh nghiệp cũng cần trang bị công nghệ cao, so sánh lợi thế giữa các quốc gia và nhận thức năng lực của chính doanh nghiệp mình để có những điều chỉnh và đầu tư thích hợp. Đó là cơ sở để doanh nghiệp xây dựng chiến lược kinh doanh và hội nhập.
TH