Cần có chính sách bảo vệ thực vật tập trung
Trong những năm qua, nhờ những tiến bộ về sản xuất thuốc BVTV cho nên ngành chè đã hạn chế tối đa sự phá hoại của sâu bệnh cho chè. Trong những năm ngành chè hầu hết được tổ chức theo mô hình Xí nghiệp nông – công nghiệp ( XN NCN) thì việc kiểm soát thuốc BVTV khá tốt.
Tuy nhiên, từ khi các mô hình XN NCN bị phá vỡ, các hộ gia đình nhận khoán vườn chè và nông dân trồng chè tự lo BVTV; ngoài các doanh nghiệp quy mô nhỏ, tự trồng, chế biến và tiêu thụ chè theo chuỗi giá trị, thì hầu như không có doanh nghiệp nào kiểm soát được toàn bộ quá trình BVTV cho cây chè, rất ít doanh nghiệp có thể khẳng định sản phẩm chè của mình đảm bảo yêu cầu vệ sinh ATTP. Do vậy, trong thời gian gần đây, việc xuất khẩu chè sang các nước EU, Nhật Bản và Đài Loan gặp rất nhiều khó khăn do các nước này đã siết rất chặt dư lượng hoạt chất có trong thuốc BVTV cho chè.
Ví dụ dư lượng hoạt chất Fipronil trong sản phẩm chè, Đài loan và EU chỉ cho phép dư lượng tối đa không vượt quá 0.005 mg/kg sản phẩm, Nhật bản chỉ cho phép dư lượng tối đa không vượt quá 0.002 mg/kg sản phẩm. Trong khi đó một số sản phẩm chè của Việt Nam gửi đi kiểm nghiệm có dư lượng hoạt chất Fipronil nhiều gấp trên 10 lần so với quy định trên. Hoạt chất Fipronil hiện nay vẫn nằm trong danh mục thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng chủ yếu được dùng để chống rầy cho lúa và cũng có thể có trong danh mục một số thuốc sử dụng cho chè. Do thuốc bảo vệ thực vật cho lúa rẻ hơn, nên một số nông dân đã dùng thuốc trừ sâu cho lúa để phun cho chè.
Việc thành lập mô hình tổ chức BVTV tập trung sẽ đảm bảo thay thế việc BVTV của các hộ gia đình. Điều kiện và mô hình tổ chức BVTV tập trung có thể là tổ chức do doanh nghiệp, HTX hoặc nhóm hộ chế biến chè búp tươi thành lập (gọi chung là Doanh nghiệp), quản lý và điều hành.
Doanh nghiệp chế biến chè được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy hoạch, phân vùng nguyên liệu cụ thể; cách ly tối thiểu 500 m với vùng chè khác. Không phân biệt chè của doanh nghiệp hay của nông dân trong vùng. Được nhà nước bảo hộ là vùng nguyên liệu của doanh nghiệp đầu tư, BVTV và thu mua chè búp tươi; Nếu là vùng chè liền khoảnh với vùng chè của doanh nghiệp khác thì cả 2 doanh nghiệp cùng phối hợp điều hành công tác BVTV.
Với doanh nghiệp phải có đủ lực lượng lao động có trình độ tối thiểu về BVTV (trung cấp nông nghiệp trở lên, hoặc trình độ trung cấp ngành nghề khác nhưng đã có chứng chỉ tập huấn về công tác BVTV cho chè); Doanh nghiệp có tiềm lực về tài chính để đỡ đầu, hỗ trợ Tổ chức BVTV hoạt động ngoài phần đóng góp của các hộ gia đình trồng chè được BVTV cho chè.
TS. Nguyễn Hữu Tài Chủ tịch Hiệp hội chè Việt Nam