Xử lý nợ xấu: Cần nhìn thẳng sự thật
Khó khăn lớn nhất đối với tiến trình xử lý nợ xấu hiện nay là phải thống nhất về chủ trương, quan điểm có dùng ngân sách nhà nước để xử lý nợ xấu hay không.

TS Trương Văn Phước, Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia, nhận định khi nói đến chi ngân sách xử lý nợ xấu, dư luận có định kiến là lấy của người nghèo chia cho người giàu. Sử dụng ngân sách nhà nước (NSNN) không phải là “cho không, biếu không”, không phải cấp phát mà thực chất là một loại tín dụng nhà nước, cho vay có định lượng và bảo đảm tránh rủi ro. Nguồn ngân sách này cho các tổ chức tín dụng vay trong 5-10 năm với mức lãi suất nào đó, đến hạn, họ bán được các tài sản bảo đảm thì trả lại. Ngoài ra, cũng có thể phát hành trái phiếu đặc biệt. “Cần thống nhất về mặt chủ trương, sau đó mới bắt tay vào vấn đề kỹ thuật. Xin lưu ý, mỗi năm tỉ lệ nợ xấu tự nhiên của nền kinh tế phát sinh vào khoảng 1,25% GDP, tương ứng 60.000-70.000 tỉ đồng. Nếu chúng ta không tát ao thật nhanh thì nước mưa từ trên trời trút xuống sẽ tiếp tục làm ao đầy thêm” - ông Phước ví von.
TS Trương Văn Phước cho biết thêm là tỉ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu của hệ thống ngân hàng 5 năm gần đây giảm 3 lần, từ 12% còn 4%, tỉ lệ sinh lời trên tài sản bảo đảm cũng giảm làm cho nền kinh tế phải chấp nhận chi phí vốn cao. Đó là một trong những lý do trực diện khiến lãi suất lên đến 8%-9%, trong khi lạm phát chưa tới 1%.
Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch HĐTV Công ty Luật Basico, cho rằng dù muốn hay không vẫn phải dùng NSNN để xử lý nợ xấu, đây là vấn đề có tính nguyên tắc và kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra. Thực tế, NSNN đã tham gia xử lý nợ xấu thông qua chi phí cho hoạt động của Công ty Quản lý tài sản các tổ chức tín dụng (VAMC), giảm thu từ việc các ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro cho nợ xấu... Đã đến lúc thừa nhận vấn đề này để có giải pháp hiệu quả.
Bài toán đánh đổi
Trước những lấn cấn của cả người làm chính sách và dư luận về việc xử lý nợ xấu bằng NSNN, TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), nhìn nhận quá trình xử lý nợ xấu phải tách khỏi việc trừng phạt người gây ra nợ xấu. Như vậy, không có nghĩa là khoan dung, là cứu rỗi ngân hàng yếu kém mà thực chất là giảm đi tổn thất, chi phí mà nền kinh tế phải gánh chịu đối với nợ xấu. Từ đó, bảo đảm hệ thống tài chính hoạt động bình thường. Điều này đặc biệt quan trọng khi nền kinh tế Việt Nam chủ yếu dựa vào tín dụng ngân hàng với quy mô tín dụng lên đến 110% GDP.
“Chúng ta không nên sa đà vào việc tranh luận có nên dùng tiền thuế của người dân để xử lý nợ xấu hay không. Vấn đề cốt lõi là bài toán đánh đổi. Nếu sử dụng 5% GDP để xử lý nợ xấu ngay bây giờ thì 5 năm sau, nền kinh tế thu lại 10% GDP từ tăng trưởng thì đây là việc các nhà quản lý phải suy nghĩ. Nếu không, nền kinh tế cứ như cỗ xe di chuyển chậm chạp, không có sức để bứt lên” - TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên kinh tế và Chính sách - ĐHQG Hà Nội, phân tích.
Theo Tô Hà Người lao động