Tại sao nợ vay của Tập đoàn Hoa Sen tăng mạnh?

Nợ phải trả của Hoa Sen đã tăng đột biến trong năm 2017 và tiếp tục xu hướng này trong năm 2018, đi kèm với xu hướng tăng nợ vay là tỷ suất lợi nhuận giảm và giá cổ phiếu giảm. Vậy tại sao Hoa Sen lại tăng mạnh mẽ nợ vay từ năm 2017?

Trên thị trường tôn mạ, Tập đoàn Hoa Sen là công ty đầu ngành và chiếm lĩnh được thị phần lớn nhất. Trong giai đoạn 2014-2016, doanh thu và tài sản của Hoa Sen tăng với tốc độ khá từ tốn và mức độ sử dụng nợ vay vừa phải. Tuy nhiên, nợ phải trả của Hoa Sen đã tăng đột biến trong năm 2017 và tiếp tục xu hướng này trong năm 2018, đi kèm với xu hướng tăng nợ vay là tỷ suất lợi nhuận giảm và giá cổ phiếu giảm. Vậy tại sao Hoa Sen lại tăng mạnh mẽ nợ vay từ năm 2017?

Tăng nợ vay là một quyết định chiến lược của Tập đoàn

Năm 2017 là một năm đặc biệt với Tập đoàn Hoa Sen. Đây là năm có tốc độ tăng trưởng rất cao trong việc sử dụng nợ phải trả, theo đó, nợ phải trả đã tăng vọt từ mức 8.180 tỷ đồng cuối năm tài chính 2016 lên mức 16.268 tỷ đồng cuối năm 2017, với tỷ lệ tăng 99%, rất cao so với mức độ tăng nợ phải trả là 25% của năm 2016. Sự gia tăng nợ phải trả đột biến của Tập đoàn năm 2017 là nhằm tài trợ cho sự tăng trưởng đột biến về tài sản (gia tăng vốn lưu động và vốn cố định) trong năm 2017. Kết thúc năm tài chính 2017, Tập đoàn Hoa Sen tiếp tục duy trì vị thế số 1 trên thị trường tôn mạ Việt Nam, chiếm 34,3% thị phần, doanh thu thuần đạt 26.149 tỷ đồng, tăng trưởng 46% so với năm 2016, tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế lại giảm từ mức 1.504 tỷ đồng năm 2016 xuống mức 1.331 tỷ đồng năm 2017 với tỷ lệ giảm là 11,5%.

Các chỉ tiêu tài chính của Tập đoàn Hoa Sen- Đơn vị tính: Tỷ đồng

TT Chỉ tiêu Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
A Tình hình nợ phải trả        
1 Nợ phải trả 7.826 6.529 8.180 16.268
2 Tốc độ gia tăng nợ phải trả 59% -17% 25% 99%
3 Hệ số nợ/tổng nguồn vốn 77% 69% 67% 76%
B Kết quả kinh doanh        
3 Doanh thu thuần 14.990 17.467 17.893 26.149
4 Thị phần ngành tôn mạ 37,1% 37.4% 33,1% 34,3%
5 Lợi nhuận sau thuế 410 652 1.504 1.331

Như bảng số liệu đã chỉ ra, xu hướng giảm xuống của hệ số nợ trong giai đoạn 2014 – 2016 đi kèm với sự suy giảm thị phần của Tập đoàn Hoa Sen trong ngành tôn mạ từ mức 37,1% năm 2014 xuống mức 33,1% năm 2016 tức là giảm tới 4% thị phần. Nếu lấy mốc so sánh thị phần của Tập đoàn năm 2012 là 40,9% thì năm 2016 sẽ có mức giảm lên tới 7,8%. Xu hướng giảm thị phần này là đáng báo động và một nguyên nhân quan trọng đó là tốc độ tăng trưởng đầu tư của Hoa Sen đã thấp hơn tốc độ tăng trưởng đầu tư của toàn ngành. Điều này có nguyên nhân quan trọng từ việc Tập đoàn đã không tích cực sử dụng nợ vay để làm đòn bẩy mở rộng thị phần.

Sự suy giảm thị phần của Tập đoàn Hoa Sen trong giai đoạn này có nguyên nhân quan trọng đến từ sự gia tăng đầu tư chiếm lĩnh thị phần mạnh mẽ của các đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là sự gia tăng đầu tư từ đối thủ mạnh thứ hai trong ngành CTCP Thép Nam Kim và sự gia nhập ngành tôn mạ của một công ty có tiềm lực tài chính rất mạnh là Tập đoàn Hòa Phát. Trong giai đoạn 2016 – 2017, Nam Kim đã liên tục tăng vốn chủ sở hữu thông qua phát hành cổ phiếu với tổng giá trị phát hành 1.234 tỷ đồng và qua đó thực hiện việc đầu tư mạnh mẽ vào nhà máy mới và vốn lưu động, gia tăng chiếm lĩnh thị trường. Với Tập đoàn Hòa Phát, năm 2016, tập đoàn này bắt đầu tham gia vào thị trường tôn mạ với tổng mức đầu tư là 4.000 tỷ đồng xây dựng nhà máy tại Hưng Yên, bắt đầu cho sản phẩm ra thị trường từ năm 2018. Sự tấn công từ các đối thủ cạnh tranh là rất mạnh mẽ và quyết liệt đã khiến thị phần của Hoa Sen co lại rất mạnh trong giai đoạn 2012 – 2016, đe dọa vị thế số 1 ngành tôn mạ của Hoa Sen.

Đứng trước sự tấn công mạnh mẽ của đối thủ, Tập đoàn Hoa Sen sẽ làm gì trong bối cảnh này? Hoa Sen đứng trước hai lựa chọn chiến lược rất khó khăn:

Lựa chọn (1): Để duy trì các chỉ tiêu tài chính tốt, hệ số nợ vừa phải, tỷ suất lợi nhuận tốt và mức giá cổ phiếu tốt trong ngắn hạn và khiến nhiều cổ đông hài lòng, Hoa Sen phải kiểm soát nhịp độ vừa phải trong việc gia tăng nợ vay và tài sản cũng từ đó làm cho tốc độ tăng doanh thu chậm, tuy nhiên, nhược điểm của lựa chọn này đó là, vì các đối thủ đầu tư rất mạnh mẽ do đó, thị phần của Hoa Sen sẽ tiếp tục giảm.

Lựa chọn (2): Thực hiện một chương trình đáp trả mạnh mẽ, bao phủ thị phần quyết liệt, ngăn cản và đẩy lùi các đối thủ, duy trì vững chắc vị thế số 1 trên thị trường tôn thép thông qua việc gia tăng nợ vay đột biến để đầu tư mạnh mẽ cho các nhà máy mới và vốn lưu động, hạ giá bán sản phẩm, mở rộng nhanh chóng các chi nhánh bán hàng, tăng chi cho kênh phân phối để mở rộng khách hàng và thị phần. Tuy nhiên, điểm hạn chế của lựa chọn này là các tỷ số tài chính như hệ số nợ, dòng tiền, lợi nhuận sẽ xấu đi trong ngắn hạn và khiến giá cổ phiếu giảm trong ngắn hạn, điều có thể khiến nhiều cổ đông không hài lòng.

Kết quả là Hoa Sen đã lựa chọn chiến lược 2 và đây là một sự đánh đổi giữa thiệt hại trong ngắn hạn để đổi lấy vị thế cạnh tranh mạnh mẽ trong dài hạn. Theo quan điểm của tôi, đây là một lựa chọn chiến lược mạo hiểm nhưng đúng đắn và rất khôn ngoan. Với việc vay nợ đột biến trong năm 2017 và năm 2018 để đầu tư vào vốn lưu động và tài sản cố định, mở rộng thị trường, thị phần của Tập đoàn trong ngành tôn mạ Việt Nam đã phục hồi từ mức 33,1% năm 2016 lên mức 34,3% năm 2017 với doanh thu năm 2017 tăng trưởng 46% so với 2016. Tuy nhiên, mặt trái của chiến lược giành thị phần này là lợi nhuận năm 2017 đã giảm 11,5%, cùng với mức hệ số nợ rất cao đã ảnh hưởng đến giá cổ phiếu.

Tăng nợ vay gắn liền với đánh đổi giữa thiệt hại trong ngắn hạn với lợi thế chiến lược trong dài hạn

Để giải bài toán duy trì và gia tăng vị thế trong ngành, Hoa Sen đã sử dụng hai vũ khí quan trọng cho việc gia tăng lợi thế cạnh tranh:

Thứ nhất, gia tăng sử dụng nợ vay để cải thiện vị thế cạnh tranh. Sự gia tăng sử dụng nợ vay mạnh mẽ qua đó, đầu tư mạnh vào các nhà máy mới và vốn lưu động phục vụ cho chiến lược giành lại thị phần, duy trì vững chắc vị thế số 1 trong ngành tôn mạ.

Thứ hai, với biên lợi nhuận khá cao, Hoa Sen đã sử dụng chính sách hạ giá bán và tăng chi cho kênh phân phối, chấp nhận giảm lợi nhuận trong ngắn hạn để giữ khách hàng và mở rộng cơ sở khách hàng. Năm 2017, doanh thu thuần của Hoa Sen tăng mạnh tới 46% nhưng lợi nhuận sau thuế lại giảm 11,5% so với năm 2016. Sự giảm xuống của biên lợi nhuận giúp cho Hoa Sen mở rộng cơ sở khách hàng và gia tăng tỷ lệ thị phần trong ngành.

Nhiều người nhận định tình hình gia tăng nợ và giảm lợi nhuận, dòng tiền thâm hụt là dấu hiệu cho thấy Hoa Sen gặp khó khăn, tuy nhiên, nhận định ngược lại mới đúng. Chính Tập đoàn Hoa Sen đã chủ động tăng nợ nợ vay để đầu tư mở rộng mạnh mẽ, chủ động giảm tỷ suất lợi nhuận để chiếm lĩnh thị phần và tạo ra lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ trước các đối thủ. Trong trường hợp này, tăng mức độ nợ vay được sử dụng như là một vũ khí tạo lập lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ trước các đối thủ.

Bài học trong sử dụng nợ vay tạo lập lợi thế cạnh tranh

Trường hợp vay nợ tăng đột biến của Tập đoàn Hoa Sen giúp chúng ta khái quát một bài học rất hay về việc sử dụng nợ vay để tạo lập lợi thế cạnh tranh. Bài học rút ra ở đây là gì? với các công ty đầu ngành, khi gặp phải đối thủ cạnh tranh mạnh có động thái thâm nhập ngành hoặc mở rộng thị trường thì công ty đầu ngành phải dũng cảm và mạo hiểm, sẵn sàng hi sinh lợi ích ngắn hạn và sự mất lòng cổ đông thông qua việc tăng cường sử dụng nợ vay mạnh mẽ để thực hiện một chương trình phản công quyết liệt chiếm lĩnh thị trường và qua đó, tạo lập lợi thế và vị thế cạnh tranh bền vững. Sử dụng nợ vay là con dao hai lưỡi và mạo hiểm, tuy nhiên, nếu khéo léo sử dụng đúng bối cảnh phù hợp, nó sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Theo Trí thức trẻ

Tags:

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế, hướng tới đột phá chiến lược

Ngày 1/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam đã ký Quyết định số 114/QĐ-BCĐTTTC, phê duyệt Kế hoạch hành động triển khai xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam. Đây được xem là những bước đi chiến lược, mang tầm nhìn dài hạn nhằm đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ tài chính khu vực và toàn cầu.

Tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm nhân thọ

Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững (2015- 2021), từ năm 2022 thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam có dấu hiệu chững lại và suy giảm rõ rệt. Đặc biệt, trong các năm 2023 và 2024, phí bảo hiểm giảm lần lượt 11,9% và 5,7%, trong khi số lượng hợp đồng giảm 10,7% và 5,2% so với năm liền trước. Điều này cho thấy thị trường đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như suy thoái kinh tế, thay đổi trong hành vi tiêu dùng, đặc biệt là mất niềm tin từ khách hàng sau các vụ việc tiêu cực.

Duy trì lãi suất ở mức thấp quá lâu sẽ tiềm ẩn rủi ro

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động và Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025, điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ lãi suất đang được kỳ vọng phát huy vai trò hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi

Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) của Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh từ định hướng phát triển kinh tế của thành phố gắn liền với phát triển thị trường tài chính là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, gắn với các cơ chế chính sách đặc thù, tầm nhìn dài hạn. Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Hồng Văn, Phó tổng giám đốc Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước TP. Hồ Chí Minh (HFIC) đã có những chia sẻ với phóng viên.

Video