Hai kịch bản tỷ giá, tín dụng và cung tiền năm 2023

Chứng khoán BIDV mới đây đã đưa ra các kịch bản cho diễn biến tỷ giá, tín dụng, cung tiền trong năm 2023.

Trong báo cáo vĩ mô mới phát hành, Chứng khoán BIDV (BSC) cho rằng, tỷ giá USD/VND tăng mạnh vào nửa cuối năm 2022 khi FED gia tăng tốc độ thắt chặt chính sách tiền tệ. Tính đến ngày 30/12, tỷ giá liên ngân hàng USD/VND đạt 23.633 (+3,4%).

Tỷ giá USD/VND tăng mạnh do: (1) Chênh lệch lãi suất giữa USD và VND thu hẹp tạo áp lực mạnh lên thị giá VND; (2) Dự trữ ngoại hối suy giảm trong giai đoạn căng thẳng vào quý II và quý III chủ yếu do dòng vốn ngoại rút khỏi nền kinh tế Việt Nam trước áp lực gia tăng của đồng USD trên toàn cầu.

Dù vậy, so sánh với các quốc gia khác, tỷ giá USD/VND vẫn khá bình ổn và thấp hơn mức trung bình của các quốc gia này. Kết quả này cho thấy sức ổn định của tỷ giá VND và làm suy giảm nỗi lo lắng về việc rút dòng vốn nóng USD khỏi nền kinh tế Việt Nam.

Xét về nguồn cung ngoại hối cho năm 2023, dự trữ ngoại hối vẫn sẽ duy trì trạng thái dồi dào dựa trên 3 yếu tố sau: (1) Tình trạng xuất siêu dự tính sẽ tiếp tục trong năm 2023 khi các yếu tố vĩ mô vẫn đang ủng hộ xu hướng xuất siêu của Việt Nam. Theo tính toán BSC, con số này ước tính đạt 13-15 tỷ đô. (2) Nguồn kiều hối ước tính có tốc độ tăng trưởng trung bình 3 năm ở mức 4.4% và đạt 19,7 tỷ USD vào năm 2023. (3) Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách điều hành tỷ giá ổn định và có thể mua lại đồng USD nếu có các điều kiện thuận lợi như lạm phát kiểm soát và chỉ số Dollar Index điều chỉnh sau chu kỳ tăng mạnh năm 2022.

BSC cho rằng tỷ giá liên ngân hàng nhiều khả năng sẽ nằm ở 2 kịch bản.

Kịch bản 1: 24.400 USD/VND (+3,2% YTD). Trường hợp này xảy ra khi FED tăng lãi suất vượt lên 5,25% cùng với lạm phát Việt Nam ở mức 5,1% và tốc độ hồi phục của ngành du lịch, lữ hành chậm.

Kịch bản 2: 23.900 USD/VND (+1,1% YTD). Trường hợp này xảy ra khi FED duy trì lãi suất tại mức 5,25% cùng với lạm phát Việt Nam ở dưới mức 4,5% và tốc độ hồi phục của ngành du lịch, lữ hành nhanh.

Hai kịch bản tỷ giá, tín dụng và cung tiền năm 2023 - Ảnh 1.

Về chính sách tiền tệ, BSC cho biết, trong năm qua, NHNN đã tăng lãi suất 2 lần trong tháng 9 và tháng 10 trước áp lực từ đồng USD tăng mạnh, lãi suất FED tăng cao và lạm phát toàn phần gia tăng. Lãi suất tái chiết khấu tăng từ 2,5% lên 4,5% và lãi suất tái cấp vốn tăng từ 4% lên 6%. 

Đồng thời, Nghị định 65/2022 thắt chặt thị trường trái phiếu doanh nghiệp (chủ yếu là nhóm BĐS) cũng gây áp lực mạnh lên vốn đầu tư dài hạn. Từ đó, tổng phương tiện thanh toán có mức tăng chậm nhất trong lịch sử và chỉ đạt 3.85%. Mức chênh lệch giữa tổng phương tiện thanh toán cho thấy tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp.

Lượng giao dịch liên ngân hàng tăng mạnh trong năm 2022 bất chấp đà tăng của lãi suất cho thấy sức ép căng thẳng lên hệ thống liên ngân hàng. Tuy nhiên, áp lực đã suy giảm vào cuối năm nhờ tỷ giá đã bình ổn trở lại và Bộ tài chính cũng đưa ra một số kiến nghị liên quan đến giảm mức độ thắt chặt của NĐ 65/2022.

Với tình trạng lạm phát Việt Nam đang trên đà tăng mạnh và FED có thể tăng lãi suất thêm 0,75% theo kế hoạch hiện hành, NHNN có thể sẽ tăng lãi suất thêm 0,5-1,0%. Hiện tượng này cũng sẽ trực tiếp tác động đến lượng tiền chảy vào nền kinh tế Việt Nam.

Với dự báo trên, BSC chia ra hai kịch bản chính cho tăng trưởng tín dụng và cung tiền M2 cho năm 2023.

Hai kịch bản tỷ giá, tín dụng và cung tiền năm 2023 - Ảnh 2.

Kịch bản 1: Lạm phát Việt Nam tăng cao và FED nâng lãi suất hơn 0,75% có thể khiến lãi suất điều hành tăng thêm +1%. Thêm vào đó, nếu thị trường trái phiếu doanh nghiệp phục hồi chậm thì sẽ khiến cho M2 và tín dụng có mức tăng thấp hơn so với giai đoạn 2020-2021. M2 và tín dụng ước tính lần lượt tăng 6% và 10%.

Kịch bản 2: Lạm phát Việt Nam được kiểm soát và FED nâng lãi suất thêm 0,75% thì có thể khiến lãi suất điều hành thêm 0,5%. Bên cạnh đó, nếu thị trường trái phiếu doanh nghiệp phục hồi nhanh thì sẽ khiến cho M2 và tín dụng tăng nhanh hơn giai đoạn 2020-2021. M2 và tín dụng ước tính lần lượt tăng 12% và 14%.

Theo Quang Hưng (Nhịp sống Thị trường)

Tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm nhân thọ

Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững (2015- 2021), từ năm 2022 thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam có dấu hiệu chững lại và suy giảm rõ rệt. Đặc biệt, trong các năm 2023 và 2024, phí bảo hiểm giảm lần lượt 11,9% và 5,7%, trong khi số lượng hợp đồng giảm 10,7% và 5,2% so với năm liền trước. Điều này cho thấy thị trường đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như suy thoái kinh tế, thay đổi trong hành vi tiêu dùng, đặc biệt là mất niềm tin từ khách hàng sau các vụ việc tiêu cực.

Duy trì lãi suất ở mức thấp quá lâu sẽ tiềm ẩn rủi ro

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động và Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025, điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ lãi suất đang được kỳ vọng phát huy vai trò hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi

Trung tâm tài chính quốc tế: Nâng cao vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu

Việc xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) của Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh từ định hướng phát triển kinh tế của thành phố gắn liền với phát triển thị trường tài chính là một trong những lĩnh vực ưu tiên hàng đầu trong quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, gắn với các cơ chế chính sách đặc thù, tầm nhìn dài hạn. Xung quanh vấn đề này, ông Nguyễn Hồng Văn, Phó tổng giám đốc Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước TP. Hồ Chí Minh (HFIC) đã có những chia sẻ với phóng viên.

Video