Giữ mạch tín dụng - nền tảng duy trì tăng trưởng kinh tế

Trong bối cảnh thiên tai, rủi ro kinh tế ngày càng phức tạp, việc đảm bảo dòng vốn tín dụng không bị gián đoạn được xác định là một trong những điều kiện tiên quyết để duy trì năng lực phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng.

Cuối tuần qua, NHNN đã ban hành công văn yêu cầu các tổ chức tín dụng khẩn trương triển khai các biện pháp hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão Wipha – cơn bão số 3 với phạm vi ảnh hưởng rộng từ Bắc Bộ đến Bắc Trung Bộ. Theo đó, các giải pháp bao gồm cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay, giữ nguyên nhóm nợ và tiếp tục cho vay mới để khôi phục sản xuất, kinh doanh. Các tổ chức tín dụng cũng được chỉ đạo phối hợp với chính quyền địa phương, hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ xử lý nợ, góp phần hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Đây là một hành động cụ thể, thể hiện tinh thần điều hành chủ động, linh hoạt sát thực tế của NHNN nhằm duy trì thông suốt dòng tín dụng.

Hỗ trợ tín dụng sau thiên tai chỉ là một trong rất nhiều giải pháp linh hoạt và quyết liệt mà NHNN đã triển khai thời gian qua để duy trì dòng chảy tín dụng vào nền kinh tế. Trong phát biểu mới đây, bà Hà Thu Giang, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) nhấn mạnh, ngành Ngân hàng đã và đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp về tiền tệ, tín dụng để kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, NHNN điều hành chính sách tín dụng một cách chủ động, linh hoạt, tập trung giảm mặt bằng lãi suất, đơn giản hóa thủ tục, tăng khả năng tiếp cận vốn, nhất là cho lĩnh vực ưu tiên và các khu vực có khả năng tạo động lực tăng trưởng.

Theo các chuyên gia, trong khi các giải pháp thúc đẩy tín dụng giúp duy trì ổn định trước mắt, thì về lâu dài, cần xây dựng định hướng phát triển kênh vốn trung và dài hạn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế phát triển bền vững. Bởi lẽ, phần lớn vốn huy động trong hệ thống ngân hàng hiện nay có kỳ hạn ngắn, chủ yếu phục vụ nhu cầu vốn lưu động, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn để đầu tư sản xuất, hạ tầng, phát triển kinh doanh ngày càng gia tăng, tạo áp lực không nhỏ và tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn cho hệ thống.

Ông Nguyễn Hoàng Linh, Giám đốc phân tích tại Công ty Quản lý quỹ VCBF cho rằng, phần lớn nguồn vốn huy động của ngân hàng hiện có kỳ hạn ngắn dưới 12 tháng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn ngày càng gia tăng, tạo ra rủi ro kỳ hạn lớn. Để giải quyết vấn đề này, cần phát triển mạnh mẽ thị trường vốn. Hiện quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 10% GDP – thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực. Theo ông Linh, việc rút ngắn quy trình phát hành, đơn giản hóa thủ tục và nới giới hạn đầu tư vào trái phiếu là cần thiết để thu hút dòng vốn dài hạn từ khu vực tài chính phi ngân hàng.

Cùng quan điểm, ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc FrinRatings đánh giá, nếu hai kênh dẫn vốn ngoài ngân hàng là trái phiếu doanh nghiệp và cổ phiếu được khai thác hiệu quả, Việt Nam hoàn toàn có thể duy trì mức tăng trưởng tín dụng từ 16% đến 20% mỗi năm mà vẫn đảm bảo an toàn hệ thống. Việc mở rộng thị trường vốn không chỉ giảm áp lực cho ngân hàng mà còn phân tán rủi ro và tăng tính linh hoạt cho nền kinh tế.

Một đề xuất đáng chú ý được ông Nguyễn Xuân Thành, Giảng viên Đại học Fulbright Việt Nam đưa ra là phát hành trái phiếu gắn với các dự án hạ tầng, được đảm bảo bằng quyền sử dụng đất nhưng không tính vào nợ công. Cách tiếp cận này sẽ mở rộng thêm kênh huy động vốn hiệu quả cho các địa phương, đồng thời thúc đẩy đô thị hóa và tăng giá trị tài sản công thông qua các dự án cơ sở hạ tầng có tính lan tỏa.

Ở tầm nhìn vĩ mô, theo GS.TS. Hoàng Văn Cường, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách của Thủ tướng, điều hành chính sách tiền tệ hiện nay đang phải cân đối giữa ba mục tiêu lớn: ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng. Những mục tiêu này đôi khi xung đột lẫn nhau, đòi hỏi nhà điều hành phải có sự linh hoạt và tinh tế trong sử dụng các công cụ chính sách.

GS. TS. Cường nhấn mạnh vai trò phối hợp giữa lãi suất và tỷ giá. Trong bối cảnh áp lực tỷ giá gia tăng, xuất khẩu suy giảm cần có chính sách hợp lý để khuyến khích giữ ngoại tệ trong nước, đồng thời bảo đảm nguồn cung ngoại tệ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Quan trọng hơn, trong khi thị trường vốn chưa phát triển mạnh, tăng trưởng kinh tế vẫn phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng. Do đó, giữ thông suốt dòng vốn tín dụng vẫn là nhiệm vụ quan trọng của ngành Ngân hàng để duy trì đà phục hồi trong môi trường đầy biến động.

Theo Thời báo Ngân Hàng

Tài chính tiêu dùng tiếp tục mở rộng

Trong 6 tháng đầu năm 2025, tín dụng tiêu dùng trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh Đông Nam bộ tăng trưởng 6% so với cuối năm 2024. Tuy nhiên, phần lớn dòng vốn tín dụng tiêu dùng vẫn tập trung vào lĩnh vực mua, thuê mua và xây dựng nhà ở để sử dụng, chiếm hơn 60% tổng dư nợ tiêu dùng.

Chuyển đổi số ngành ngân hàng tăng tốc, Nam A Bank “tung” hàng loạt cải tiến trên hệ sinh thái ngân hàng số

Chuyển đổi số ngành ngân hàng đang bước vào giai đoạn bứt phá, với tỷ lệ giao dịch trực tuyến tăng trưởng ấn tượng trong 6 tháng đầu năm 2025. Trong hành trình này, Nam A Bank ghi dấu ấn bằng hàng loạt cải tiến số độc đáo trên hệ sinh thái Ngân hàng số, minh chứng là giao dịch online chạm mốc 98%.

Ngân hàng tăng phát hành trái phiếu, chủ động vốn trung, dài hạn

Theo số liệu thống kê từ FiinRatings, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp trong tháng 6 đạt 105,5 nghìn tỷ đồng, tăng 52,4% so với tháng trước. Tốc độ tăng trưởng này cho thấy xu hướng phục hồi rõ ràng của thị trường sau giai đoạn suy giảm trong năm 2023 và đầu năm 2024. Đáng chú ý, các NHTM là nhóm phát hành chủ đạo trong 6 tháng đầu năm, với tổng giá trị 189,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 76,3% tổng lượng phát hành.

Ngân hàng kết nối dữ liệu cảnh báo giao dịch đáng ngờ

Từ tháng 7/2025, nhiều NHTM lớn đã chính thức vận hành tính năng cảnh báo tài khoản nghi ngờ gian lận ngay trong ứng dụng chuyển tiền. Tính năng này sẽ tiếp tục được mở rộng ở hầu hết các ngân hàng trong hệ thống.

Vẫn còn nhiều rào cản đối với tín dụng xanh

Tính đến cuối tháng 3/2025, mới chỉ có 58 TCTD phát sinh dư nợ tín dụng xanh, với tổng dư nợ đạt khoảng 704.200 tỷ đồng, chiếm 4,3% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong khi đó, tổng giá trị phát hành trái phiếu xanh trong 5 năm qua chỉ đạt 1,16 tỷ USD, con số này còn cách rất xa so với nhu cầu vốn, ước tính khoảng 20 tỷ USD mỗi năm để phục vụ mục tiêu chuyển đổi xanh.

Video