Điều gì khiến nông dân Israel hết “sợ công nghệ” và bài học cho chuyển đổi số nông nghiệp Việt Nam?
THÀNH CÔNG BƯỚC ĐẦU NHƯNG VẪN CÒN NHIỀU KHÓ KHĂN
Trong 5 năm gần đây, ngành nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 2,71% một năm. Kim ngạch xuất khẩu mỗi năm tăng bình quân 2 tỷ USD, đạt kỷ lục 43 tỷ USD năm 2019. Trong đó, có 10 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Hiện nay, nông sản Việt Nam xuất khẩu đi 200 nước và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Quá trình tái cơ cấu nông nghiệp nâng cao năng suất, giá trị gia tăng. Tổ chức sản xuất cũng đổi mới. Số lượng hợp tác xã (HTX) cũng được tăng nhanh, đến nay cả nước có gần 17.000 HTX nông nghiệp (tăng 1,5 lần năm 2015) trong đó có trên 15.000 HTX hoạt động hiệu quả (chiếm 88%) vượt nhiều so với 18,6% của năm 2015. Ngoài ra, cả nước có gần 13.000 doanh nghiệp nông nghiệp, tăng gấp ba lần năm so với 2015.
Năm 2019, thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn đạt 40,79 triệu đồng mỗi người, tăng khoảng 1,67 lần năm 2015. Tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 9,88% năm 2015 xuống còn 3,75% năm 2019.
Ngành nông nghiệp quan tâm nhiều hơn đến các giải pháp chuyển đổi số và ứng dụng trong hầu hết lĩnh vực. Trong trồng trọt, công nghệ IOT, BigData được ứng dụng thông qua sản phẩm công nghệ số như phần mềm cho phép phân tích các dữ liệu về môi trường, loại cây và giai đoạn sinh trưởng của cây, người tiêu dùng có thể truy suất và theo dõi các thông số này theo thời gian thực…
Trong chăn nuôi, công nghệ IOT, blockchain, công nghệ sinh học được áp dụng rộng ở trang trại chăn nuôi quy mô lớn. Ngành chăn nuôi bò sữa ứng dụng công nghệ số nhiều nhất, với mô hình nổi bật là các trang trại hiện đại.
Trong lâm nghiệp, ứng dụng công nghệ DND mã mạch trong quản lý giống lâm nghiệp và lâm sản, công nghệ GIS và ảnh viễn thám để xây dựng các phần mềm phát hiện sớm và cảnh báo cháy rừng từ ảnh vệ tinh, phần mềm giám sát và phát hiện sớm mất rừng, suy thoái rừng...
Ngành thuỷ sản cũng chuyển đổi số mạnh mẽ như việc sử dụng thiết bị dò cá sử dụng sóng siêu âm, máy đo dòng chảy, điện thoại vệ tinh, máy thu lưới vây (đứng), hệ thống thu - thả lưới chụp, công nghệ GIS và hệ thống định vị toàn cầu (GPS) giúp quản lý đội tàu khai thác hải sản xa bờ. Ngành nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ sinh học chọn lọc, lai tạo các giống có năng suất, chất lượng cao, có khả năng kháng bệnh, chịu đựng tốt với môi trường, công nghệ nuôi thủy sản tuần hoàn (RAS), công nghệ biofloc, công nghệ nano, công nghệ nuôi lồng trên biển, công nghệ nuôi cá nước lạnh. Công nghệ trí tuệ nhân tạo AI được sử dụng trong nuôi tôm nhằm phân tích các dữ liệu về chất lượng nước, quản lý thức ăn và sức khỏe của tôm nuôi. Công nghệ tự động hóa được áp dụng trong khâu chế biến thủy sản từ phân loại, hấp, đóng gói, dây chuyền sản xuất… giúp giảm chi phí sản xuất, đảm bảo chất lượng sản phẩm thủy sản…
Đạt được những thành công bước đầu nhưng theo ông Nguyễn Hữu Ninh, Phó Vụ trưởng Vụ KHCN, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chuyển đổi số trong nông nghiệp ở Việt Nam vẫn có những khó khăn như cơ sở hạ tầng cho phát triển, ứng dụng các công nghệ chưa đồng bộ, quy mô đồng ruộng manh mún (bình quân 0,44 ha đất/hộ sử dụng đất lúa), kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nông nghiệp, còn nhiều yếu kém so với yêu cầu để ứng dụng máy móc trong sản xuất. Ngoài ra, trình độ cơ giới hoá sản xuất nông nghiệp còn thấp, các công nghệ phụ trợ phục vụ phát triển nông nghiệp còn rất hạn chế (cơ khí, chế biến sâu, dây chuyền kiểm nghiệm sản phẩm nông nghiệp…).
Ông Ninh khẳng định có nhiều hệ thống thông tin, CSDL được triển khai rải rác tại các đơn vị trực thuộc Bộ. Các hệ thống thông tin, CSDL này được đầu tư không tập trung nên thiếu tính gắn kết, không đồng bộ về kỹ thuật, mất an ninh an toàn thông tin… Tiếp theo, nguồn nhân lực có chuyên môn cao về sản xuất, chế biến sản phẩm nông nghiệp có đầy đủ kỹ năng trong sử dụng, vận hành các thiết bị (thiết bị tự động, thiết bị số, thiết bị phân tích....) rất hạn chế.
Các diễn giả trong hội nghị chuyển đổi số trong lĩnh vực nông nghiệp tại Ngày chuyển đổi số Việt Nam 2020.
SMARTPHONE KHIẾN NÔNG DÂN ISRAEL HẾT "SỢ CÔNG NGHỆ"
Chia sẻ về kinh nghiệm phát triển nông nghiệp tại Ngày chuyển đổi số Việt Nam diễn ra tại Hà Nội, ông Nadav Eshcar, Đại sứ Israel tại Việt Nam cho biết: “Israel khan hiếm nước vì không có sông, rất ít nước mưa. Chất lượng thổ nhưỡng kém. Tôi rất ghen tỵ với Việt Nam có nguồn lực, tài nguyên tuyệt vời. Ở Israel, chúng tôi buộc phải thực hiện các biện pháp đổi mới, sáng tạo trong nông nghiệp. Công nghệ tưới nhỏ giọt tiết kiệm nước được áp dụng phổ biến từ năm 1950. Đây cũng là lý do rất nhiều công ty nổi tiếng về công nghệ tưới tiêu bắt nguồn từ Israel. Mục tiêu của chúng tôi là nhiều thực phẩm hơn cho nhiều người hơn với ít tài nguyên, ít nước, ít nhân lực, ít hoá chất, ít năng lượng hơn”.
Đại sứ Israel tại Việt Nam chia sẻ đất nước 8 triệu dân có tới hơn 400.000 công ty khởi nghiệp, và luôn tìm giải pháp tốt nhất cho nông dân. Các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng rót vốn chiếm 46% cho lĩnh vực nông nghiệp. Hệ sinh thái nông nghiệp công nghệ cao Israel là các thành tố gắn chặt với nhau gồm học viện nghiên cứu, sản xuất công nghiệp, nông dân, nhà đầu tư, chính phủ.
Tại Israel, vấn đề khó khăn tương tự nhiều quốc gia khác là nông dân không muốn thay đổi, sợ công nghệ, sợ máy tính, sử dụng máy móc. Tuy vậy, ông Nadav Eshcar khẳng định smartphone đang làm thay đổi điều này bởi ai cũng sở hữu điện thoại và dễ dàng thao tác trên màn hình.
Vị đại sứ chia sẻ một số công nghệ phổ biến trong nông nghiệp Israel như cảm biến trên đồng ruộng giúp người nông dân tưới cây đủ nước thông qua ứng dụng quản lý thu hoạch nổi tiếng Tevel, công nghệ kiểm tra trứng gà bằng sóng âm của tập đoàn Livegg.