Vì sao lãi suất ở Việt Nam lại cao hơn so với các nước khu vực?

Thống đốc NHNN cho biết, so sánh số liệu với một số nước trong khu vực như Myanmar, lãi suất cho vay ở mức 13%/năm, Indonesia là 11,9%/năm, Thái Lan là 6,3%/năm, Singapore là 5,4%/năm thì mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND của Việt Nam hiện nay khoảng 6-11%/năm, lãi suất cho vay bằng ngoại tệ trong khoảng 3-4%vẫn ở mức tương đối hợp lý với tương quan kinh tế vĩ mô.

Tại Hội nghị Thủ tướng với Doanh nghiệp 2017, Thống đốc NHNN Lê Minh Hưng cho biết, từ năm 2016, trong bối cảnh kỳ vọng lạm phát có xu hướng tăng, cầu vốn tín dụng và phát hành trái phiếu Chính phủ tiếp tục ở mức cao, tiến độ giải ngân vốn đầu tư còn thấp tạo áp lực đến cầu vốn tín dụng, NHNN kiên trì điều hành các giải pháp phù hợp để giữ ổn định mặt bằng lãi suất huy động, giảm lãi suất cho vay, qua đó hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhưng đồng thời vẫn đảm bảo mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Mặt bằng lãi suất huy động và cho vay diễn biến ổn định từ năm 2016 đến nay, đặc biệt từ cuối tháng 9/2016, một số TCTD đã giảm 0,3-0,5%/năm lãi suất huy động, giảm 0,5-1%/năm lãi suất cho vay đối với SXKD, lĩnh vực ưu tiên.

Như vậy, mặt bằng lãi suất hiện nay đã giảm mạnh (chỉ bằng 40% lãi suất cuối năm 2011), phù hợp với mục tiêu điều hành, diễn biến tiền tệ và lạm phát, đồng thời đảm bảo hài hòa lợi ích của người gửi tiền - TCTD và khách hàng vay.

Một số nước trong khu vực (như Nhật Bản, Trung Quốc) có lãi suất cho vay thấp là vì: (i) Lạm phát được kiềm chế ở mức thấp, kinh tế vĩ mô ổn định; (ii) Khả năng dự báo và hoạch định kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cao; (iii) Hoạt động SXKD của doanh nghiệp không quá phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

Trong khi đó, Việt Nam là nước đang phát triển, nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế xã hội của tất cả các khu vực kinh tế đều ở mức cao, kinh tế vĩ mô về cơ bản ổn định nhưng các cân đối lớn của nền kinh tế chưa thực sự bền vững, kỳ vọng lạm phát còn cao và dễ biến động, xử lý nợ xấu gặp nhiều khó khăn, đồng thời thị trường chứng khoán và thị trường trái phiếu chưa phát triển đồng bộ dẫn tới nhu cầu vốn của doanh nghiệp cũng như vốn đầu tư cho phát triển kinh tế phụ thuộc lớn vào hệ thống ngân hàng,... Các yếu tố này đã ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất cho vay của TCTD.

Tuy nhiên, so sánh số liệu với một số nước trong khu vực như Myanmar, lãi suất cho vay ở mức 13%/năm, Indonesia là 11,9%/năm, Thái Lan là 6,3%/năm, Singapore là 5,4%/năm thì mặt bằng lãi suất cho vay bằng VND của Việt Nam hiện nay khoảng 6-11%/năm,lãi suất cho vay bằng ngoại tệ trong khoảng 3-4%vẫn ở mức tương đối hợp lý với tương quan kinh tế vĩ mô.

Tại Nghị quyết số 24/2016/QH14 của Quốc hội ngày 8/11/2016 đã chỉ đạo giao ngành Ngân hàng phấn đấu đến năm 2020 giảm lãi suất cho vay trung bình trong nước có tính cạnh tranh so với mức lãi suất cho vay trung bình trong nhóm ASEAN-4.

Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để điều hành lãi suất ổn định, phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát; tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để có điều kiện giảm lãi suất cho vay; đặc biệt quan tâm đến lãi suất ưu đãi đối với các doanh nghiệpthuộc lĩnh vực ưu tiên, DNNVV, doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ cao, doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, có sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường quốc tế.

Theo Trí thức trẻ

Tags:

Phát triển thị trường cho vay ngang hàng: Chậm mà chắc

Theo báo cáo của IMARC Group, thị trường cho vay ngang hàng (P2P Lending) tại Việt Nam đã đạt quy mô 5,5 tỷ USD vào năm 2024 và dự kiến sẽ tăng trưởng mạnh mẽ, chạm mốc 52,7 tỷ USD vào năm 2033, tương ứng với tốc độ tăng trưởng kép hằng năm 10,2%. Động lực cho sự phát triển này đến từ dân số hơn 100 triệu người với nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính số ngày càng lớn.

Tái định hình bảo hiểm liên kết ngân hàng

Kênh phân phối bảo hiểm liên kết qua ngân hàng (bancassurance) đang tăng trưởng trở lại theo hướng củng cố năng lực tư vấn, số hóa quy trình và phát triển sản phẩm bảo vệ thuần vừa tuân thủ luật pháp, vừa khôi phục niềm tin khách hàng.

Lan tỏa chính sách tín dụng STEM ở Khánh Hòa

Tín dụng STEM không chỉ là một chính sách tài chính, mà là sự cam kết của Nhà nước, của ngành Ngân hàng trong hành trình nâng bước tri thức. Để từ những miền quê như Vạn Thắng, Ba Ngòi, Diên Lâm (Khánh Hòa)… những giấc mơ học tập được viết lên bằng ý chí, nỗ lực và sự đồng hành của cả cộng đồng.

Kiến tạo chuyển đổi xanh, góp phần phát triển kinh tế bền vững

Với “sứ mệnh” là ngân hàng thương mại Nhà nước hàng đầu phục vụ nông nghiệp - nông dân - nông thôn, Agribank đã và đang khẳng định rõ nét vai trò chủ lực trong triển khai tín dụng xanh, kiến tạo chuyển đổi xanh, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.

Video