Hải quan: Cần làm rõ số vênh 5 tỷ USD xuất khẩu khoáng sản sang Trung Quốc
Vừa qua, Tổng cục Hải quan đã lên tiếng phản hồi về thông tin vênh giữa con số nhập khẩu khoáng sản từ Việt Nam của Trung Quốc và con số thống kê xuất khẩu khoáng sản của Hải quan VN.
Phát biểu tại Hội thảo “Quản lý đầu tư trong khai thác khoáng sản – Các bất cập và khuyến nghị” vừa được tổ chức ngày 29/7/2016, ông Lê Đăng Doanh cho biết con số vênh là 5 tỷ USD. “Tại sao nước ta xuất khẩu khoáng sản kim ngạch đạt đến 5 tỷ USD mà phía Hải quan Việt Nam không biết, thống kê cũng không công bố?” – ông Doanh nhấn mạnh.
[caption id="attachment_30515" align="aligncenter" width="588"]
Chênh lệch là…không tránh khỏi
Trước thắc mắc này, ngày 12/8/2016, Tổng cục Hải quan đã chính thức có thông tin gửi tới các cơ quan báo chí. Nội dung thông tin khẳng định việc chênh lệnh số liệu thống kê hàng hóa song phương giữa các nước theo các nguồn số liệu thống kê khác nhau là phổ biến và không thể tránh khỏi. Nguyên nhân chênh lệch số liệu sẽ được Tổng cục Hải quan phối hợp cùng Tổng cục Thống kê phân tích và báo cáo giải trình đến lãnh đạo các cấp. Tuy nhiên, nhìn về tổng quát thì có hai nguyên nhân chính:
Nguyên nhân thứ nhất là do phương pháp thống kê nước đối tác giữa xuất khẩu (là nước hàng đến cuối cùng) và nhập khẩu (là nước xuất xứ hàng hóa); phạm vi hàng hóa đưa vào thống kê; cách xác định trị giá thống kê khác nhau giữa hàng hóa xuất khẩu (giá FOB) và hàng hóa nhập khẩu (giá CIF).
Nguyên nhân thứ hai là do buôn lậu, gian lận thương mại từ cả hai phía Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt là ở các mặt hàng là quặng sắt, quặng titan, than đá… ở các tỉnh biên giới.
…nhưng không phải 5 tỷ USD
Sau khi đưa ra nguyên nhân, Tổng cục Hải quan khẳng định, mặc dù có vênh nhưng độ vênh số liệu giữa hai bên không nhiều như ông Lê Đăng Doanh đã đưa ra.
Cụ thể, các mặt hàng than, quặng và khoáng sản có mã HS thuộc các Chương 25, Chương 26 và từ nhóm 2701 đến 2704 của Chương 27.
Trên cơ sở thống kê của Hải quan Việt Nam và nguồn số liệu từ “Cơ sở dữ liệu thương mại của Cơ quan Thống kê Liên Hợp quốc (UNCOMTRADE)” (số liệu của Trung Quốc do Hải quan Trung Quốc báo cáo), sự chênh lệch này lần lượt là 133,4 triệu USD năm 2015 và 386,3 triệu USD năm 2014.
Theo số liệu của UNCOMTRADE, tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa thuộc các Chương 25, 26 và 27 (từ nhóm 2701 đến 2701) có xuất xứ từ Việt Nam vào Trung Quốc chỉ đạt 253,7 triệu USD năm 2015 và 781,2 triệu USD năm 2014 còn theo số liệu của hải quan Việt Nam, tổng trị giá xuất khẩu các hàng hóa trên sang Trung Quốc đạt 120,2 triệu USD năm 2015 và 395 triệu USD năm 2014.
Từ các con số trên cho thấy có độ chênh về con số thống kê giữa Trung Quốc và Việt Nam nhưng chênh ở mức 5 tỷ USD trong xuất khẩu khoáng sản như các báo đã đăng thì cần phải làm rõ.
Tổng cục Hải quan cũng cho biết các con số thống kê xuất khẩu khoáng sản nói riêng và các hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu nói chung qua đường chính ngạch đều được công bố công khai rộng rãi, định kỳ 15 ngày và hàng tháng theo Lịch công bố thông tin đã được Tổng cục Hải quan phê duyệt trên Cổng Thông tin điện tử của Tổng cục Hải quan (www.customs.gov.vn) tại Chuyên trang Thống kê Hải quan.
Về chính sách thuế, Tổng cục Hải quan luôn tuân thủ theo các văn bản quy phạm pháp luật về thuế như Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Luật Thuế giá trị gia tăng; Biểu thuế xuất khẩu ban hành kèm theo Thông tư số 182/2015/TT-BTC ngày 16/11/2015 của Bộ Tài chính để thu thuế đối với các khoáng sản phải chịu thuế, đặc biệt là các loại khoáng sản phải chịu thuế suất cao như Quặng titan và tinh quặng titan nhóm 26.14 có mức thuế xuất khẩu từ 30-40%; Một số loại đá có mức thuế xuất khẩu từ 17-30%.
Các khoáng sản này được quản lý và kiểm soát theo Thông tư số 41/2012/TT-BCT ngày 24/12/2012 và Thông tư số 12/2016/TT-BCT ngày 05/7/2016 quy định về xuất khẩu khoáng sản do Bộ Công thương ban hành.
Theo DĐDN