Động lực mới cho tăng trưởng
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm trong suốt 71 năm qua (từ ngày Quốc khánh 2/9/1945) và đã đạt được những thành tựu lớn lao. Tuy vậy, khi chia sẻ với DĐDN, nguyên Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh cho rằng cần tái cơ cấu toàn diện, đặc biệt phải thực hiện được phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường.
– Qua nhiều năm kinh tế liên tục tăng trưởng dựa vào những nguồn lực cũ như mở rộng chính sách tài khóa… Chính phủ mới đã khẳng định cần phải tiếp tục tiến hành tái cơ cấu, tìm kiếm một động lực tăng trưởng mới hoàn toàn. Theo ông đâu là “động lực mới hoàn toàn đó” là gì?
Lần tái cơ cấu trước (giai đoạn 2013-2015) cũng đã thực hiện được một số việc, nhưng đúng là chưa được như mong muốn. Điều này Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương (CIEM) cũng đã nêu rõ trong bản dự thảo đề án tái cơ cấu giai đoạn 2016-2020. Có thể nói chúng ta chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho quá trình tái cơ cấu trước đây, chưa cân đối được mọi điều kiện cần và đủ để thấy rõ chúng ta phải chấp nhận hệ quả gì và nhận lại được cái gì. Cho nên giai đoạn tái cơ cấu vừa rồi chưa thành công được. Đó là bài học cho đến bây giờ. Còn lần tái cơ cấu mới này, tôi thấy một số thay đổi. Đó là tái cơ cấu đã được quan tâm nhiều hơn và áp lực hơn so với lần trước. Cũng dễ hiểu vì lần tái cơ cấu trước chưa làm được nhiều, trong khi nền kinh tế lại ngày càng bộc lộ những hạn chế.
Nếu đã như vậy, Chính phủ và Quốc hội cần phải coi đề án tái cơ cấu nền kinh tế lần này như là một văn kiện quan trọng để phát triển đất nước và phải tập hợp được những chuyên gia hàng đầu và những nhà lãnh đạo hàng đầu.
Những nguyên nhân tồn tại từ giai đoạn trước đã được CIEM viết ra ở trong dự thảo đề án tái cơ cấu như chưa thực sự đổi mới về tư duy, chưa có quyết tâm chính trị đủ lớn đều đúng cả. Đến nay vẫn đúng, nhưng cụ thể là phải làm thế nào mới là quan trọng. Tôi cho rằng điểm mấu chốt nhất tạo ra sự khác biệt trong lần tái cơ cấu này so với lần trước là phải phân bổ nguồn lực theo nguyên tắc thị trường.
[caption id="attachment_32322" align="aligncenter" width="588"]
– Ông có thể nói rõ hơn đó là những nguồn lực thế nào và sẽ được phân bổ ra sao?
Nguồn lực đó là tài nguyên khoáng sản, đất đai và cả nguồn vốn. Xưa nay các nguồn lực này đang được phân bổ lệch. Nhưng nếu theo nguyên tắc thị trường, không phải cứ dầu khí là quyền khai thác của Tập đoàn Dầu khí, không phải cứ quặng sắt là quyền khai thác của TCty thép Việt Nam và không phải cứ Apatit là thuộc quyền của Tập đoàn Hóa chất… Thay vì thế, ai đứng ra cam kết sử dụng hiệu quả những nguồn tài nguyên này sẽ được tiếp cận và sử dụng nguồn lực.
Đất nước mới là người quản lý tài nguyên, đất nước mới là người quản lý nguồn lực. Để làm được điều đó, cần phải có cơ chế đấu giá xem ai đem lại hiệu quả cao nhất, bất kể đó là DN Nhà nước hay tư nhân, như vậy mới gọi là phân bổ nguồn lực theo cơ chế thị trường. Đây là nguyên lý phải làm và phải được thống nhất, nếu Bộ nào, ngành nào, địa phương nào làm trái phải xử lý.
– Nhiều chuyên gia kinh tế khi tham gia góp ý cho đề án tái cơ cấu mới cũng đã lo ngại về sự tồn tại của cơ chế “xin-cho” và nhóm lợi ích. Liệu đây sẽ là rào cản cho việc thực hiện cơ chế phân bổ nguồn lực theo thị trường như ông nói?
Đúng là có tồn tại nhóm lợi ích. Ta phải có cơ chế kiểm soát để thực hiện đúng cái đó, chứ không phải để rồi nó rơi vào tay ông nọ ông kia. Quan trọng bây giờ là cách làm, chứ không phải phân bổ cho ông này tí, ông kia tí thì sao hiệu quả được.
– Khi đề cập đến tái cơ cấu, đã có những ý kiến cho rằng cần phải “phá trần” để tạo ra động lực tăng trưởng mới. Vậy trần phải phá đó cụ thể là gì, thưa ông?
Tăng trưởng phải qua năng suất lao động. Tôi nghĩ là phải có Hội đồng năng suất lao động của đất nước. Vì nền tảng năng suất lao động chúng ta có rất nhiều vấn đề. Cơ cấu năng suất lao động của ta hiện nay là 44% lao động làm trong ngành nông nghiệp tạo ra 17% GDP, điều đó quá thấp.
Thứ hai là khu vực lao động chính thức và phi chính thức mất cân đối. Hầu hết là lao động phi chính thức, tức là làm việc không có bảo hiểm, hợp đồng. Đó là những người bán rong ngoài chợ, làm dịch vụ cắt tóc gội đầu… Tất nhiên cái nào cũng tốt, xã hội nào cũng cần, nhưng tỷ lệ người làm trong khu vực chính thức ít quá và không thể có năng suất lao động cao. Tôi cho rằng việc phân bổ lại nguồn lực theo cơ chế thị trường sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn và nâng cao năng suất lao động tốt hơn.
– Gần đây đã chứng kiến sự phát triển của phong trào khởi nghiệp ở Việt Nam, liệu phong trào này có tạo ra động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế?
Khởi nghiệp là chuyện rất lớn của quốc gia, nó chính là phân bổ nguồn lực. Tức là xưa nay đồng tiền chúng ta thường gửi hết vào trong ngân hàng, thậm chí DN cũng gửi vào ngân hàng để lấy tiền lãi, không kinh doanh gì cả và cũng không tạo được việc làm. Thế nhưng phong trào khởi nghiệp đã mang lại một xu hướng mới. Người ta nói nhiều đến Quốc gia khởi nghiệp. Một quốc gia khởi nghiệp là quốc gia phải làm cho mọi đồng tiền trong người dân được đưa vào sản xuất, với những ý tưởng táo bạo nhất, mạnh dạn nhất. Đó chính là tinh thần khởi nghiệp. Để làm được điều đó Nhà nước phải tạo điều kiện để mỗi người dân, công dân được đưa ý tưởng của mình tạo ra một sản phẩm, xây dựng một DN làm ra những sản phẩm, dịch vụ có ích cho xã hội, đất nước, tạo ra công ăn việc làm. Nhờ đó sẽ tạo ra sức cạnh tranh lớn cho đất nước.
– Xin cảm ơn ông!
Ông Nguyễn Đình Cung – Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý KTTƯ: Các giải pháp tạo đột phá
Giai đoạn 2016 -2020, để kinh tế phá triển, Việt Nam cần tập trung vào các giải pháp:
Thay đổi tư duy và cách thức quản lý đối với DNNN, giảm dần và tiến tới xóa bỏ bao cấp, lợi thế về quyền và cơ hội kinh doanh dành riêng cho DNNN, buộc các DNNN phải cạnh tranh thực sự và kinh doanh bình đẳng theo cơ chế thị trường; đổi mới, phát triển và áp dụng khung quản trị hiện đại theo thông lệ quốc tế; Tiếp tục phân loại các DNNN, xác định cụ thể danh mục DNNN sẽ giải thể hoặc cho phá sản theo Quyết định số 14/2011/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, hoàn thành kế hoạch CPH và kế hoạch thoái vốn ở các DN đã CPH ở các ngành, lĩnh vực nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ cổ phần hoặc cổ phần chi phối, trước hết là lĩnh vực dịch vụ, nhà hàng, khách sạn, du lịch…
Với đầu tư công, chúng ta cần áp dụng nguyên tắc ngân sách cứng đối với các dự án đấu thầu đầu tư công. Cương quyết không chấp nhận bất kỳ hình thức điều chỉnh chi phí đầu tư nào. Điều này là điều kiện bắt buộc để áp dụng nguyên tắc phân bổ vốn theo cơ chế thị trường. Đưa ra các tiêu chí cụ thể và chặt chẽ đối với việc chỉ định thầu để hạn chế các dự án chỉ định thầu. Những dự án có sai lệch lớn so với dự toán hoặc chênh lệch lớn so với nhà đầu tư tốt nhất, nhà thầu tốt nhất thì bắt buộc giải trình. Những nhà thầu làm tốt sẽ được tính điểm cộng trong quá trình đấu thầu sau này.
Cuối cùng cần phải quản lý theo chế độ quản lý nợ của các ngân hàng thương mại. Tốt nhất là chuyển các khoản Chính phủ đi vay về giao cho các ngân hàng thương mại quản lý và cho các địa phương, cơ quan Trung ương vay lại để thực hiện các dự án đầu tư công…
PGS.TS Phạm Quý Thọ – Chuyên gia chính sách công, Học viện Chính sách và Phát triển – Bộ KHĐT: DN tư nhân – trụ cột để phá triển
Trước hết phải nói rằng, dư địa để cải cách nền kinh tế theo đề án giai đoạn một cách đây 5 năm đã không còn phù hợp trong bối cảnh hiện nay.
Theo tôi, một trong những trụ cột của tái cơ cấu kinh tế lần này phải nhấn mạnh là DN tư nhân trong nước, giữ vai trò dẫn dắt và thực hiện quá trình tái cơ cấu ngành kinh tế. Tái cơ cấu nền kinh tế phải dựa trên các quyết định đầu tư kinh doanh của DN dưới sức ép cạnh tranh của thị trường trong nước và quốc tế, tức là làm theo tiếng gọi của thị trường.
Đặc biệt, việc chỉ ra 6 ngành dịch vụ ưu tiên: dịch vụ logistics (vận tải hàng hóa, cảng biển, dịch vụ hải quan, kho bãi và bảo quản hàng hóa, dịch vụ phân phối…); dịch vụ phát triển kinh doanh; dịch vụ du lịch; dịch vụ tài chính ngân hàng; dịch vụ giáo dục bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp… đã cho thấy đây là những lĩnh vực rất cấp bách để đảm bảo tiến độ hội nhập của chúng ta.
Tuy nhiên, tôi cũng xin nhấn mạnh rằng, thị trường của VN hiện vẫn chưa hình thành rõ nét, thậm chí là “méo mó” vì vậy, nếu theo cái “méo mó” đó sẽ rất nguy hiểm. Vì vậy, bên cạnh việc thực hiện cần có những định hướng cụ thể, quyết liệt hơn từ các Bộ, ngành để đảm bảo các nguyên tắc thị trường. Việc bổ sung có tính chất phản biện và xây dựng là điều vô cùng quan trọng để có thể có một hướng đi cụ thể và chính xác trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.
Chưa bao giờ câu nói “Phi công (công nghiệp) bất phú, phi nông bất ổn, phi thương bất hoạt” đúng như giai đoạn hiện nay. Và theo tôi, lần tái cơ cấu này chúng ta nên tập trung hỗ trợ tối đa, đẩy mạnh thực hiện cải cách thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho DN tư nhân phát triển, có như vậy, nền kinh tế mới có sự chuyển mình mạnh mẽ hơn nữa.
Ông Trịnh Sỹ – TGĐ Cty cổ phần Tràng An: Tối ưu hóa DN
Đặc biệt, DNNN chuyển sang mô hình Cty cổ phần/Cty tư nhân là chuyển sang loại hình quản lý khoa học hơn, nhiều ưu điểm hơn, gắn chặt lợi ích của chủ sở hữu, người lao động, tự chịu trách nhiệm… và phù hợp với mô hình kinh doanh tiên tiến trên trường quốc tế hiện nay. Cả quá trình này là “tối ưu hoá” quản lý của từng DN và của cơ chế vận hành nền kinh tế.
Để cổ phần hóa nhanh chỉ cần tăng cáo bạch DNNN trước khi thoái vốn, đấu giá… công bố thông tin và giám sát thực hiện đúng Luật Chứng khoán… Theo tôi, cần kỷ luật hoặc thay các cán bộ lãnh đạo bộ, ban, ngành, DNNN không thực hiện đúng kế hoạch CPH. Bên cạnh đó, chúng ta cần khẩn trương hình thành “Cty (hoặc “Quỹ”) quản lý và kinh doanh vốn nhà nước”, không còn cơ quan quản lý nhà nước kiêm luôn chủ quản DN mà tăng cường quản lý DN theo Luật và hậu kiểm.
Đặc biệt, môi trường kinh doanh hiện nay đang giảm dần sự khác biệt giữa DNNN và DNTN. Lãnh đạo Chính phủ đã có những hành động cụ thể về “Chính phủ kiến tạo” qua Luật DN mới với sự tự hết hạn của “giấy phép con”, không phân biệt đối xử với các loại hình DN…
Ông Nguyễn Hữu Sia – TGĐ Cảng Đà Nẵng: Nên cổ phần hóa DNNN mạnh mẽ hơn nữa
Thực tế cho thấy, việc cổ phần hóa đã giúp nhiều DNNN gần như được “thay máu”, với những kết quả kinh doanh đáng ngạc nhiên. Trong thời gian qua, một trong những điểm sáng được nhắc đến như Vinamilk, Vinaphone… Hay như Cảng Đà Nẵng, nếu trong giai đoạn 2010 – 2013, lợi nhuận của Cty mỗi năm khoảng trên dưới 17 tỷ đồng thì năm 2014, sau khi chuyển đổi sang mô hình Cty cổ phần, lợi nhuận đã đạt hơn 90 tỷ đồng, năm 2015 là gần 125 tỷ đồng và 2016 kế hoạch là hơn 160 tỷ đồng.
Bên cạnh việc tái cơ cấu DNNN, cũng cần có các chính sách nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân trong nước hơn nữa để khu vực này có vị thế cạnh tranh toàn cầu. Nhà nước cũng nên nghiên cứu, phân tích và chỉ rõ cho doanh nhân lợi thế cạnh tranh của Việt Nam là gì, từ đó định hướng cho DN nên tập trung đầu tư chiến lược vào các ngành, các sản phẩm chủ đạo, để càng hội nhập sâu với thế giới thì càng vững vàng. Đặc biệt cần cải cách thể chế liên quan đến kinh doanh để làm sao giảm chi phí hành chính cho DN và tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch hỗ trợ DN phát triển.
Ông Đoàn Trọng Lý – Chủ tịch HĐQT CTCP Chăn nuôi chế biến xuất nhập khẩu Aprocimex: Hai lý do khiến nông nghiệp cần thay đổi
Là một DN trong lĩnh vực nông nghiệp, theo tôi, việc tái cơ cấu trong lĩnh vực này dù được thực hiện quyết liệt nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu bởi 2 lý do. Lý do thứ nhất các DN chưa thấm nhuần, chưa mặn mà với việc tái cơ cầu kinh tế. Lý do thứ 2, các nhà làm chính sách trong lĩnh vực nông nghiệp cũng chưa có kinh nghiệm và chưa vì cái chung hoàn toàn, họ vẫn làm theo sự phân công, phân nhiệm.
Để việc tái cơ cấu được thực hiện tốt cần có sự tham gia hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức hiệp hội và đặc biệt là nghiệp phải tự nguyện tự giác liên kết với nhau.
Chính sách hỗ trợ thì đã có nhiều nhưng để làm tốt được thì cần sự chung tay từ 2 phía. Làm tốt điều này thì cái được của đất nước đó là hàng hóa được tiêu thụ nhanh và phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, bên cạnh đó nhà nước cũng thu được ngân sách từ DN. Cái được cho DN đó là nếu sản xuất có lãi sẽ có cơ hội tiếp tục đầu tư, mở rộng thị trường.
Theo Ngọc Linh - DĐDN