Nợ xấu ở cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp “xanh vỏ, đỏ lòng”

Cơ quan của Quốc hội lưu ý nhiều vấn đề về nợ xấu, trong đó cả điểm “xanh vỏ, đỏ lòng” ở cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp.

Nợ xấu ở cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp “xanh vỏ, đỏ lòng”

Đồng ý kéo dài thời hạn thực hiện toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42 về thí điểm xử lý nợ xấu đến hết ngày 31/12/2023 và đưa nội dung này vào Nghị quyết chung của kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, song Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cũng lưu ý nhiều vấn đề xung quanh đề xuất này.

Báo cáo đánh giá việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và thẩm tra Tờ trình về việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 vừa được Ủy ban Kinh tế gửi tới các vị đại biểu Quốc hội.

Trước đó, hồ sơ về nội dung này cũng đã được Chính phủ gửi Quốc hội với đề xuất Quốc hội thông qua việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng đến ngày 31/12/2023.

Còn 412,67 nghìn tỷ đồng chưa xử lý 

Theo đánh giá của Ủy ban Kinh tế, trong thời gian áp dụng Nghị quyết, nợ xấu được xử lý của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) có nhiều tiến triển, nhất là nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42.

Các hình thức xử lý nợ xấu được đa dạng hóa, đặc biệt là xử lý nợ xấu nội bảng thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ tăng mạnh so với trước đây; một số biện pháp được thí điểm theo Nghị quyết số 42 như mua bán nợ theo giá trị thị trường, xử lý các khoản nợ đang hạch toán ngoài bảng cân đối kế toán từng bước phát huy tác dụng.

Tuy nhiên, kết quả xử lý nợ xấu chưa thực sự vững chắc, thực trạng nợ xấu cho thấy nền kinh tế vẫn tiềm ẩn rủi ro (riêng nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 phát sinh mới trong thời gian Nghị quyết có hiệu lực tại thời điểm 31/12/2021 là 251,3 nghìn tỷ đồng và số chưa xử lý còn 412,67 nghìn tỷ đồng).

Một số biện pháp áp dụng theo Nghị quyết số 42 còn chưa thực sự phát huy hiệu quả (như áp dụng thủ tục rút gọn tại tòa án...). 

Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân tích rõ hơn nguyên nhân dẫn đến số nợ xấu được xác định theo Nghị quyết số 42 đến nay còn ở mức khá cao và có xu hướng gia tăng; các giải pháp đã triển khai thực hiện để nhận diện cũng như kiểm soát rủi ro đối với các khoản cho vay, nhất là các khoản thuộc các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro cao.

Báo cáo của Ủy ban cũng cho biết, có ý kiến đề nghị đánh giá về chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ (được thực hiện đến ngày 30/6/2022), mặc dù chính sách này hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp trong bối cảnh dịch COVID-19 nhưng có thể phản ánh không đầy đủ nợ xấu của hệ thống các TCTD, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nền kinh tế.

Có điểm "xanh vỏ, đỏ lòng" 

Đánh giá lại quá trình xử lý nợ xấu thời gian qua, trong đó có vai trò hỗ trợ của Nghị quyết số 42, Ủy ban Kinh tế lưu ý rằng: Đối với nợ xấu nói chung, xử lý bằng dự phòng rủi ro còn chiếm tỷ lệ cao (47% tổng nợ xấu được xử lý); một số lĩnh vực có số nợ xấu chiếm tỷ trọng cao so với nợ xấu của toàn hệ thống như bất động sản (chiếm 18,4%); cho vay tiêu dùng (chiếm 25,8%); BOT, BT giao thông (3,92%).

Đáng chú ý, có điểm "xanh vỏ, đỏ lòng" được dẫn trong báo cáo. Đó là nợ xấu của lĩnh vực đầu tư, kinh doanh cổ phiếu và đầu tư, kinh doanh trái phiếu nhìn "bề ngoài" thì rất thấp, chỉ chiếm lần lượt là 1,13% và 0,01% so với nợ xấu của toàn hệ thống. Tuy nhiên, xét về mức độ, những tỷ lệ trên chiếm tương ứng tới 19,57% và 2,87% tổng dư nợ tín dụng của từng lĩnh vực.

Theo Ủy ban Kinh tế, những lĩnh vực trên tiềm ẩn rủi ro cao, có thể gây ảnh hưởng đến sự an toàn, lành mạnh của hệ thống các TCTD nói riêng và nền kinh tế nói chung, nhất là trong điều kiện năng lực chống chịu của nền kinh tế còn hạn chế.

Như thông tin trước đó, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng vừa ký một báo cáo gửi đến Quốc hội trước thềm kỳ họp khai mạc ngày 23/5 tới.

Trong đó cho biết, đối với lĩnh vực đầu tư, kinh doanh chứng khoán, đến 31/12/2021, tổng dư nợ tín dụng của hệ thống các TCTD cấp cho khách hàng để đầu tư, kinh doanh cổ phiếu là 10.934,3 tỷ đồng, chiếm 0,1% dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Tổng nợ xấu là 2.140,5 tỷ đồng, chiếm 1,13% nợ xấu toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này là 19,57%.

Tổng dư nợ tín dụng của hệ thống các TCTD cấp cho khách hàng để đầu tư, kinh doanh trái phiếu là 892,5 tỷ đồng, chiếm 0,01% dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế. Tổng nợ xấu là 28,2 tỷ đồng, chiếm 0,01% nợ xấu toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu trong lĩnh vực này là 2,87%.

 

Theo Trung Chính (Nhịp sống kinh doanh)

Mức sinh giảm hàm ý gì với thị trường bất động sản?

Việc thế hệ trẻ "ngại cưới, lười sinh" do gánh nặng chi phí và giá nhà leo thang đang tạo ra thách thức đối với triển vọng của thị trường bất động sản: già hóa dân số khiến tỷ lệ người trẻ - nhóm có nhu cầu cao về nhà ở thực - giảm. Điều này cũng đem đến hàm ý cho xây dựng chính sách, chuyển dịch sản phẩm, tư duy đầu tư.

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế, hướng tới đột phá chiến lược

Ngày 1/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam đã ký Quyết định số 114/QĐ-BCĐTTTC, phê duyệt Kế hoạch hành động triển khai xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam. Đây được xem là những bước đi chiến lược, mang tầm nhìn dài hạn nhằm đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ tài chính khu vực và toàn cầu.

Tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm nhân thọ

Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững (2015- 2021), từ năm 2022 thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam có dấu hiệu chững lại và suy giảm rõ rệt. Đặc biệt, trong các năm 2023 và 2024, phí bảo hiểm giảm lần lượt 11,9% và 5,7%, trong khi số lượng hợp đồng giảm 10,7% và 5,2% so với năm liền trước. Điều này cho thấy thị trường đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như suy thoái kinh tế, thay đổi trong hành vi tiêu dùng, đặc biệt là mất niềm tin từ khách hàng sau các vụ việc tiêu cực.

Duy trì lãi suất ở mức thấp quá lâu sẽ tiềm ẩn rủi ro

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động và Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025, điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ lãi suất đang được kỳ vọng phát huy vai trò hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi

Video