Chính sách tiền tệ thời dịch cúm Covid-19: Thế nào cho hợp lý?

Dịch cúm Covid-19 nổ ra đã trực tiếp và gián tiếp gây ảnh hưởng đáng kể đến Việt Nam. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế năm 2020 có khả năng tụt giảm, lẽ thường là sẽ có những kiến nghị kích cầu và nới lỏng tiền tệ để ngăn chặn đà rơi và vực lại tăng trưởng.

Chính sách tiền tệ thời dịch cúm Covid-19: Thế nào cho hợp lý?

Ở chiều hướng ngược lại, dịch bệnh làm cho các chuỗi cung ứng sản xuất, dịch vụ gián đoạn, làm đội giá một cách bất thường một số nhóm hàng hóa và dịch vụ, gây áp lực tăng lạm phát hiện tại và trong những tháng tới. Do đó, cũng đã có nhiều kiến nghị không nới lỏng chính sách tiền tệ (thậm chí là thắt chặt lại) và không tung ra các gói kích cầu (thông qua hệ thống ngân hàng) vốn dĩ sẽ dẫn đến hậu quả nguy hiểm là lạm phát bùng nổ như đã chứng kiến trong những năm 2008-2009.

Trong bối cảnh có những diễn biến trái chiều như trên, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nên đi theo hướng nào, ở lập trường nào là những câu hỏi không dễ trả lời. Trước sự bất định, tiến thoái lưỡng nan này, chiến lược tối ưu là thận trọng "chờ xem" và "điều trị triệu chứng", trước khi có những hành động mạnh tay, nếu cần thiết.

Quả thật, trên thực tế, NHNN rõ ràng là đang đi theo hướng này. Văn bản 541/NHNN-TD do Thống đốc NHNN ban hành ngày 4/2/2020 dường như là văn bản chính thức đầu tiên cho đến nay của NHNN liên quan đến dịch cúm. Văn bản này đề ra các giải pháp hỗ trợ khắc phục thiệt hại do ảnh hưởng của covid-19 trên tinh thần là "đau đâu thuốc đó".

Theo đó, về phía các tổ chức tín dụng (TCTD), họ được yêu cầu "chủ động nắm bắt tình hình sản xuất kinh doanh, mức độ thiệt hại của khách hàng đang vay vốn...". Tức là TCTD sẽ phải "chờ xem" (dù là ở tư thế chủ động) phạm vi và mức độ thiệt hại đối với khách hàng đang vay vốn.

Đến đây, có hai điểm đáng lưu ý từ yêu cầu trên. Thứ nhất, văn bản chỉ đề cập đến đối tượng được hỗ trợ là khách hàng đang vay vốn của TCTD chứ không phải là khách hàng chung chung, (vay vốn) tiềm năng của TCTD. Nói cách khác, khách hàng đang vay vốn TCTD, gặp khó khăn do dịch bệnh nên không/ít khả năng trả nợ thì mới được hỗ trợ (trong phạm vi khoản vay từ TCTD). Việc này vừa có ý nghĩa và thông điệp "cứu người là cứu mình" đối với TCTD, vừa là câu trả lời gián tiếp cho vấn đề có nên nới lỏng tiền tệ hay không, ít nhất là tại thời điểm này.

Điểm lưu ý thứ hai là giải pháp hỗ trợ mà văn bản trên đề ra lại chủ yếu và trước hết là từ nguồn lực của chính bản thân TCTD như cơ cấu lại thời hạn trả nợ, xem xét miễn giảm lãi vay... Ngoài lợi ích là được tiếng rằng NHNN đã tích cực, chủ động có những giải pháp thích ứng để khắc phục ảnh hưởng của dịch cúm và hỗ trợ nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế như được Chính phủ giao nhiệm vụ cho NHNN, việc NHNN yêu cầu TCTD khắc phục ảnh hưởng dịch cúm bằng "nội lực" của họ cũng là một hành động khôn ngoan để tránh cho NHNN phải chọn một hướng đi giữa ngã ba đường cho chính sách tiền tệ của mình tại thời điểm còn tương đối sớm (nhiều thứ chưa rõ ràng) này.

Về phía NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố (tức là về phía NHNN), tinh thần của văn bản trên cũng vẫn là thái độ "chờ xem" được thể hiện qua các yêu cầu "nắm bắt tình hình...", "theo dõi diễn biến...". Về biện pháp cụ thể, văn bản chỉ nêu chung chung "kịp thời thực hiện các biện pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành", và "đồng thời phối hợp với các sở, ban, ngành, kịp thời tham mưu cho UBND tỉnh/thành phố các giải pháp xử lý rủi ro, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, người dân vay vốn bị hại theo quy định".

Như thế có thể hiểu rằng lập trường chính sách tiền tệ tổng thể của NHNN tại thời điểm hiện nay tạm thời là "án binh bất động", tức sẽ không có nhiều thay đổi so với lập trường trước khi xảy ra dịch cúm. Thay vào đó, việc xử lý ảnh hưởng của dịch cúm sẽ chủ yếu mang tính cục bộ, được "phân cấp" về địa phương, ban/ngành, và các chi nhánh NHNN tại địa phương có tham gia thì chỉ ở vai trò không "đứng mũi chịu sào". Nói cách khác, với văn bản này NHNN đã tránh được phải trả lời/bày tỏ hướng đi của chính sách tiền tệ hiện tại và trong thời gian tới cho đến khi tình hình có những diễn biến khác đi đáng kể.

Nếu những phân tích trên là xác đáng thì có thể nói rằng cách xử lý vấn đề nói trên của NHNN là hợp lý trong bối cảnh nhiều yếu tố bất định như hiện nay. Chính xác hơn thì phải nói rằng không có phản ứng chính sách nào tốt hơn, đặc biệt xét từ góc độ trách nhiệm (đa nhiệm) của NHNN đối với Chính phủ nói riêng và nền kinh tế nói chung, cũng như những rủi ro mà nền kinh tế phải đối mặt khi chính sách tiền tệ của NHNN chuyển hướng quá sớm và đột ngột như đã từng chứng kiến trước đây.

Theo Tài chính Plus

Mức sinh giảm hàm ý gì với thị trường bất động sản?

Việc thế hệ trẻ "ngại cưới, lười sinh" do gánh nặng chi phí và giá nhà leo thang đang tạo ra thách thức đối với triển vọng của thị trường bất động sản: già hóa dân số khiến tỷ lệ người trẻ - nhóm có nhu cầu cao về nhà ở thực - giảm. Điều này cũng đem đến hàm ý cho xây dựng chính sách, chuyển dịch sản phẩm, tư duy đầu tư.

Xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế, hướng tới đột phá chiến lược

Ngày 1/8/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam đã ký Quyết định số 114/QĐ-BCĐTTTC, phê duyệt Kế hoạch hành động triển khai xây dựng Trung tâm tài chính quốc tế (TTTCQT) tại Việt Nam. Đây được xem là những bước đi chiến lược, mang tầm nhìn dài hạn nhằm đưa Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn trên bản đồ tài chính khu vực và toàn cầu.

Tạo lợi thế cạnh tranh trong thị trường bảo hiểm nhân thọ

Sau giai đoạn tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững (2015- 2021), từ năm 2022 thị trường bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam có dấu hiệu chững lại và suy giảm rõ rệt. Đặc biệt, trong các năm 2023 và 2024, phí bảo hiểm giảm lần lượt 11,9% và 5,7%, trong khi số lượng hợp đồng giảm 10,7% và 5,2% so với năm liền trước. Điều này cho thấy thị trường đang chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như suy thoái kinh tế, thay đổi trong hành vi tiêu dùng, đặc biệt là mất niềm tin từ khách hàng sau các vụ việc tiêu cực.

Duy trì lãi suất ở mức thấp quá lâu sẽ tiềm ẩn rủi ro

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động và Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP 8% trong năm 2025, điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ lãi suất đang được kỳ vọng phát huy vai trò hỗ trợ tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Trao đổi với phóng viên Thời báo Ngân hàng, ông Nguyễn Quang Huy, Giám đốc điều hành Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi

Video