Vào TTP: Thị trường logistics sẽ bùng nổ
Theo thống kê của Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics (VLA), chi phí logistics của Việt Nam chiếm khoảng 25% GDP mỗi năm, cao hơn rất nhiều so với các nước phát triển như Mỹ, Trung Quốc hay Thái Lan. Các doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam chưa thực sự tìm được tiếng nói chung với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Đa phần các doanh nghiệp dịch vụ logistics của Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, vốn ít và thiếu cơ sở vật chất như kho tàng, bến bãi, công nghệ thông tin, phương tiện vận chuyển…
[caption id="attachment_8714" align="aligncenter" width="700"]
Thị trường tiềm năng
Việt Nam được đánh giá là một thị trường tiềm năng và là một "miếng bánh ngon", cho ngành logistics. Có một thực tế đau lòng là các doanh nghiệp nước ngoài đang làm chủ cuộc chơi, chứ không phải doanh nghiệp trong nước...Hiện cả nước có khoảng 1.300 doanh nghiệp logistics đang hoạt động, bao gồm cả doanh nghiệp có vốn nước ngoài.Trong đó, các công ty điều phối logistics nước ngoài chỉ có khoảng 25 doanh nghiệp hoạt động nhưng lại chiếm 80% thị phần. Còn lại hơn 1.200 doanh nghiệp logistics nội địa của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 20% thị phần. Các công ty trong nước phần lớn chỉ hoạt động trong một phân khúc nhỏ của ngành như dịch vụ giao nhận hàng hóa, cho thuê kho bãi, làm thủ tục hải quan, gom hàng lẻ…
Ông Đỗ Xuân Quang, Chủ tịch VLA, mỗi năm chi phí logistics (bao gồm chi phí vận tải, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác…) ở Việt Nam chiếm khoảng 21-25% GDP; tương đương 37- 40 tỷ USD. Tuy nhiên, 85% trong số đó đã thuộc về các doanh nghiệp ngoại; doanh nghiệp Việt Nam chỉ làm đại lý cấp 2, cấp 3, thậm chí cấp 4 cho các công ty toàn cầu vàmới chỉ đáp ứng được 25% nhu cầu nội địa và chỉ tập trung vào một vài ngành dịch vụ trong chuỗi giá trị dịch vụ logistics.
Việt Nam đang tham gia sâu rộng chuỗi cung ứng toàn cầu và điều này giúp cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ấn tượng. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải cố gắng cải thiện hơn nữa để doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nâng cao cơ hội và khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trở ngại lớn nhất là chi phí logistics đang làm cho doanh nghiệp kém khả năng cạnh tranh. So sánh về chi phí kho vận (logistics) so với GDP của nhiều nước, thì Mỹ chiếm khoảng 9%, châu Âu là khoảng 13%, Mexico là 14% và mức trung bình của thế giới là 15%. Tuy nhiên, chi phí logistics của Việt Nam chiếm tới 25% là con số rất cao khiến cho doanh nghiệp chưa thể tận dụng được cơ hội, nâng sức cạnh tranh.
Phân chia thị phần
Khi vào TPP, việc phân chia thị phần là tất yếu bởi đây là sự kết nối toàn cầu. Chi phí vận tải chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí hoạt động của doanh nghiệp, nên thị phần sẽ thay đổi. Để giành lại miếng bánh thị phần, doanh nghiệp logistics Việt Nam cần tăng đầu tư vốn, năng lực trí tuệ, công nghệ và chính sách hỗ trợ kịp thời từ phía Nhà nước. Doanh nghiệp cần phải có những người tài, có kiến thức về hội nhập, thị trường; biết nắm bắt được cơ hội, hiểu biết về quá trình mua và sản xuất nguyên liệu đầu vào; biết và nghiên cứu từng khâu trong mối quan hệ với toàn chuỗi cung ứng; phân tích được nguồn cung hàng hóa, đầu mối vận chuyển sẽ mang lại hiệu quả…
Ông Trần Chí Dũng, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Logistics Việt Nam (VLI) cho biết, điểm yếu của các doanh nghiệp logistics Việt Nam chính là nguồn nhân lực bị thiếu hụt, chưa qua đào tạo nên mức độ chuyên nghiệp còn kém. Chính sách không có sự nhất quán, còn nhiều chồng chéo; trong khi công nghệ thông tin của Việt Nam còn kém và lúng túng, chi phí còn cao…Các doanh nghiệp logistics Việt Nam chủ yếu đi lên từ dịch vụ giao nhận vận tải, năng lực hạn chế, quy mô nhỏ, vốn ít, trình độ cán bộ logistics hạn chế, công nghệ thông tin lạc hậu …
Theo ông Trần Chí Dũng, để cạnh tranh khi hội nhập, Việt Nam cần thay đổi cơ sở hạ tầng vận tải đáp ứng tính cạnh tranh toàn cầu và đẩy mạnh kết nối vận tải với các quốc gia láng giềng như Thái Lan, nước có nhiều kinh nghiệm trong phát triển ngành logistics.Nhà nước cần xây dựng, hoàn thiện khung pháp lý, chuẩn hóa quy trình dịch vụ, nâng cấp cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực cho lĩnh vực logistics. Mục tiêu là phải giảm chi phí logistics, nâng được tỷ trọng đóng góp trên GDP, hỗ trợ các doanh nghiệp logistics hoàn thiện chuỗi cung ứng, cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp theo chuẩn quốc tế, nâng cao năng lực cạnh tranh…“Nếu xét riêng ngành logistics, chúng ta đã thua Singapore và Thái Lan. Thậm chí, nếu không tiến lên, Việt Nam sẽ thua Lào, Campuchia...”, ông Dũng chia sẻ.
Ông Trần Huy Hiền, Tổng Thư ký Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam, cho rằng việc giảm chi phí logistics đang là bài toán khó với các nhà quản lý và DN trong ngành, bởi đây là lĩnh vực liên quan đến rất nhiều ngành.Chi phí vận tải của Việt Nam được xếp vào hàng cao trong khu vực và thế giới, một phần là do hệ thống đường xá, cơ sở hạ tầng còn nhiều hạn chế. Trong khi đó, đội tàu biển và tàu bay, mắt xích quan trọng trong chuỗi logistics Việt Nam, đa phần là do doanh nghiệp nước ngoài nắm giữ.Hệ thống vận tải và hạ tầng yếu kém, việc kết nối đường biển và đường bộ kém và chưa có hệ thống tốt, nên xảy ra ùn tắc và năng suất vận tải đường thủy, đường sông và đường bộ thấp, dẫn đến chậm đơn hàng. Không có phương tiện, hệ thống hạ tầng tốt thì nói giảm chi phí logistics là duy ý chí.
Theo phân tích của ông Hiền, không chỉ đơn thuần là những vấn đề phát sinh từ thủ tục hải quan, mà các thủ tục liên ngành, như kiểm dịch động thực vật, kiểm tra xuất xứ hàng hóa…cũng làm ảnh hưởng đến thời gian giao nhận hàng xuất nhập khẩu.Mặc dù ngành hải quan đã ứng dụng thông quan điện tử, góp phần cho việc giải phóng hàng hóa nhanh hơn, song vẫn chưa giảm được như kỳ vọng.Mặc dù đã có thông quan điện tử, nhưng vẫn có tiêu cực trong đó, vẫn có những phí ngoài luồng, thời gian kéo dài. Mặt khác, không chỉ liên quan đến hải quanmà liên quan đến thủ tục kiểm tra liên ngành như kiểm dịch động thực vật, các thủ tục liên quan đến giấy phép con… Vấn đề là cả hệ thống làm chậm, thì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp.
Hồng Quang