Ngành công nghiệp hỗ trợ: “Chạm” vào… chính sách?!
Sau rất nhiều tranh luận về việc các doanh nghiệp phụ trợ khộng cung ứng nổi chiếc “đinh vít”, Nghị định 111/2015/NĐ-CP về triển công nghiệp hỗ trợ đã được Chính phủ ban hành.
[caption id="attachment_9114" align="aligncenter" width="600"]
Kèm theo Nghị định, Chính phủ cũng ban hành danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển, gồm 6 nhóm sản phẩm trong các ngành: Dệt may, da giày, điện tử, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo, công nghiệp công nghệ cao.
Theo Bộ Công Thương, đơn vị chủ trì xây dựng Nghị định, công nghiệp hỗ trợ có vai trò quyết định khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. Công nghiệp hỗ trợ là ngành sản xuất nền tảng của ngành công nghiệp, thông qua việc cung cấp linh kiện, phụ tùng và các qui trình kỹ thuật. Công nghiệp hỗ trợ không phải là ngành công nghiệp mang tính chất “phụ trợ” hay “hỗ trợ”, đây là ngành xương sống của nền công nghiệp quốc gia.
Tuy nhiên, tính đến cuối năm 2013, cả nước có khoảng 58 nghìn DN hoạt động trong ngành công nghiệp, nhưng số DN cung cấp các loại linh kiện phụ tùng kim loại, linh kiện điện – điện tử và linh kiện nhựa- cao su chỉ có khoảng 1.300 DN.
Sự thiếu hụt các DN công nghiệp hỗ trợ buộc các DN chính phải tìm kiếm nguồn cung cấp từ bên ngoài, đây chính là nguyên nhân gây nhập siêu trong sản xuất công nghiệp.
Chính vì vậy Nghị định 111/2015/NĐ-CP vừa được Chính phủ ban hành với hàng loạt chính sách hỗ trợ, ưu đãi được kỳ vọng sẽ thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ. Trong đó, một nội dung khá mới là việc hình thành Chương trình quốc gia về phát triển công nghiệp hỗ trợ đi kèm với các chính sách hỗ trợ trong thời gian tới, thành lập các trung tâm phát triển công nghiệp hỗ trợ ở các địa phương… Các chính sách hỗ trợ, ưu đãi này phủ rộng từ khâu nghiên cứu, phát triển cho tới khâu ứng dụng, chuyển giao công nghệ và sản xuất sản phẩm. Cụ thể, tổ chức, cá nhân nghiên cứu và phát triển sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục ưu tiên phát triển được tài trợ từ Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, hỗ trợ từ các Quỹ, nguồn kinh phí khác dành cho nghiên cứu, phát triển và đào tạo. Bên cạnh đó, được xem xét hỗ trợ một phần kinh phí nghiên cứu và phát triển từ Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đối với trường hợp tự đầu tư nghiên cứu và phát triển công nghệ có kết quả ứng dụng mang lại hiệu quả cao; được nhà nước hỗ trợ tối đa đến 50% kinh phí đối với dự án sản xuất thử nghiệm các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ. Dự án xây dựng cơ sở nghiên cứu và phát triển sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và được hưởng các ưu đãi sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; được xem xét hỗ trợ tối đa 50% kinh phí đầu tư trang thiết bị nghiên cứu từ Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ…
Nói là khá mới, bởi theo nhiều chuyên gia, doanh nghiệp thì những vấn đề, nội dung liên quan không mới hoàn toàn mà cơ bản chỉ thay đổi về mức độ như ở khâu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, chi phí chế tạo thử nghiệm sản phẩm danh mục hỗ trợ thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển được hỗ trợ tối đa đến 50%; hay như Nhà nước hỗ trợ tối đa đến 75% chi phí chuyển giao công nghệ đối với dự án sản xuất vật liệu có sử dụng trên 85% nguyên liệu là sản phẩm của quá trình chế biến sâu khoáng sản trong nước… Tuy nhiên, ở nhiều điểm khác, nhất là khâu tín dụng đã có những quy định về cho vay ưu tiên, vay ưu đãi từ nguồn Quỹ bảo vệ môi trường VN cho hạng mục xử lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường của dự án; phương thức riêng về thuế giá trị gia tăng… nhưng thủ tục vay như thế nào? Có vay được không?… Hay nói cách khác là vấn đề triển khai từ chính các DN và các cơ quan liên quan.
Đặc biệt, theo nhiều chuyên gia thì để các mục tiêu của Nghị định đi vào hiện thực, triển khai được thì cần phải chi tiết, cụ thể hóa hơn, nhất là đối với từng lĩnh vực rõ ràng, bởi công nghiệp hỗ trợ về thực chất là nằm trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khác nhau. Vì vậy, cũng phải cần có những quy định, ưu tiên đối với những dự án thuộc lĩnh vực nào, lộ trình rõ ràng, thậm chí là từng dự án cụ thể, chứ nếu không, dù ai cũng hiểu tầm vóc quan trọng của công nghiệp hỗ trợ, sự cần thiết phải phát triển nó, nhưng khi triển khai lại khó, thậm chí là không đạt được. Điều này có thể thấy qua việc ban hành những chính sách liên quan trong thời gian qua như quyết định 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ và Quyết định 1483/QĐ-TTg năm 2011 ban hành đanh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển. Tuy nhiên, đến nay sau vài năm triển khai, số DN tiếp cận và thụ hưởng được chính sách chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Trong bối cảnh việc hoàn thiện khung chính sách hỗ trợ cho ngành công nghiệp hỗ trợ càng trở nên bức thiết hơn bao giờ hết khi VN và các DN đang phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn và việc ra đời Nghị định này đuwưowợc đánh giá cao, nhưng điều các DN mong đợi đó là sự “khởi động” ngay từ bây giờ của các bộ ngành có liên quan để sớm thiết lập một cơ chế tiếp cận thuận lợi và có khả năng “chạm” vào chính sách trong thời gian ngắn nhất cho DN.
Theo Enternews