Khung giá tính thuế tài nguyên mới: Công bằng giữa các địa phương, DN
Đại diện Tổng cục Thuế khẳng định đã hoàn tất dự thảo Thông tư quy định về khung giá tính thuế tài nguyên đối với nhóm, loại tài nguyên có tính chất lý, hóa giống nhau.
[caption id="attachment_23265" align="aligncenter" width="700"]
Đây sẽ là cơ sở để thu hẹp khoảng cách về giá đối với các nhóm, loại tài nguyên giữa các địa phương, tạo cạnh tranh lành mạnh và công bằng giữa các doanh nghiệp khai thác tài nguyên và các địa phương có tài nguyên khai thác.
Tài nguyên cạn kiệt – ngân sách hạn hẹp
Số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy, Việt Nam đã khai thác 42,6 triệu tấn than, 3 triệu tấn quặng sắt, 3 triệu tấn Appatite, 193 ngàn tấn Mangan và nhiều loại khoáng sản khác với sản lượng lớn. Tuy nhiên, theo đánh giá của TS Nguyễn Thành Sơn – chuyên gia độc lập, hiện nay công nghiệp khai khoáng của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Đơn cử như về khoáng sản titan, đây là nguyên tố có nhiều trong tự nhiên với hàm lượng 0,5-0,6%. Hàm lượng titan ở Bình Thuận cũng chỉ đạt 0,5%, trong khi mỏ ở Nga hàm lượng trên 10%. Vì thế, theo ông Sơn, Việt Nam xác định có 600 triệu tấn nhưng thực tế có lẽ không được như vậy. Bên cạnh đó, công nghệ khai thác khoáng sản của Việt Nam còn lạc hậu, tổ chức quản lý không phù hợp, năng suất và hiệu quả thấp, đồng thời xâm hại nghiêm trọng đến môi trường. Bà Nguyễn Thị Cúc, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, thu thuế tài nguyên khoáng sản năm 2014 chỉ chiếm 4,4% tổng thu ngân sách, trong đó thuế từ tài nguyên khác đạt 1,25%.
Giải pháp từ ngành thuế
Theo đề xuất của Tổng cục Thuế, khung giá tính thuế tài nguyên mới sẽ được chia 5 nhóm gồm: Khung giá tính thuế tài nguyên đối với khoáng sản kim loại; khung giá tính thuế tài nguyên đối với khoáng sản phi kim loại; khung giá tính thuế tài nguyên đối với nước thiên nhiên; khung giá tính thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên; khung giá tính thuế đối với yến sào thiên nhiên.
Trong đó, khung giá tính thuế tài nguyên đảm bảo 5 yếu tố về mã nhóm, loại tài nguyên; tên nhóm, loại tài nguyên; đơn vị tính; giá tối thiểu; giá tối đa. Theo đó, giá tối đa của một nhóm, loại tài nguyên trong khung được lấy theo mức giá lớn nhất trong chuỗi giá tính thuế được tổng hợp từ các tài nguyên tương ứng trên bảng giá tính thuế của các tỉnh, thành phố. Đối với giá tối thiểu, với mục tiêu rút ngắn khoảng cách giữa các địa phương và yêu cầu khai thác tài nguyên hiệu quả, mức giá tối thiểu sẽ phải nâng lên so với giá thấp nhất hiện nay tại các địa phương đang áp dụng.
Mặt khác, để đảm bảo công bằng và minh bạch, cơ sở dữ liệu về giá tính thuế tài nguyên sẽ dựa trên khung giá do Bộ Tài chính ban hành; bảng giá tính thuế tài nguyên do UBND cấp tỉnh ban hành; nguồn thông tin phục vụ xây dựng cơ sở dữ liệu về giá tính thuế tài nguyên… Định kỳ 5 năm Bộ Tài chính thực hiện rà soát khung giá tính thuế tài nguyên thay thế để các địa phương có căn cứ thực hiện.
Theo DĐDN