Giải bài toán ô nhiễm môi trường
Dưới áp lực tăng trưởng kinh tế, tốc độ đô thị hóa quá nhanh tại nhiều thành phố lớn đã khiến công tác bảo vệ môi trường trở thành thách thức lớn với chính quyền địa phương. Tuy đã có nhiều biện pháp xử lý nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, giảm thu hút đầu tư nước ngoài - FDI và cả sức khỏe, đời sống cư dân trong khu vực cũng bị ảnh hưởng.
Thiệt hại 5% GDP
Số liệu của Ngân hàng Thế giới - WB cho thấy, tình trạng ô nhiễm môi trường tại Việt Nam gây thiệt hại đến 5% GDP mỗi năm. Ngoài ra, Việt Nam còn phải chi tới 780 triệu USD để chữa trị các chứng bệnh do ô nhiễm môi trường gây nên như bệnh tả, thương hàn, lỵ và sốt rét.
Đơn cử, kênh Tân Hóa - Lò Gốm có tiến độ cải tạo, nạo vét khá ì ạch là nỗi bức xúc của cư dân khu vực quận 6, 11, Bình Tân của TP.HCM; hay như kênh Gò Công “nước đen hôi thối” từ khu chế xuất Linh Trung, Q.Thủ Đức qua Khu công nghệ cao SHTP, Q.9 đã trở thành nỗi ám ảnh của cư dân trong nhiều năm qua. Nhiều kênh, rạch khác trên địa bàn TP.HCM cũng có mức ô nhiễm đáng báo động, như kênh Ba Bò nối giữa TX.Dĩ An, Bình Dương với Q.Thủ Đức, TP.HCM từng được cư dân khu vực này phản ánh là “thần chết”.
Nguồn nước thải sinh hoạt từ khu dân cư là một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước. Theo Phòng Kiểm soát môi trường TP.HCM, mỗi ngày TP.HCM thải gần 2.000.000 m3 nước thải sinh hoạt và hơn 100.000 m3 nước thải thô ra 4 hệ thống kênh mương. Hệ thống kênh mương cũng tiếp nhận một lượng lớn rác sinh hoạt xả từ nhiều căn hộ bất hợp pháp nằm dọc kênh. Hệ thống kênh rạch không được bảo trì, cải tạo và nạo vét triệt để khiến nước kênh ô nhiễm gây mùi hôi khó chịu.
Quá tải rác thải, nước thải
“Kết quả quan trắc tại các hồ, ao, kênh rạch, sông trong khu vực nội thành đều bị ô nhiễm nghiêm trọng, vượt quá mức QCVN 08:2008”, Báo cáo Môi trường quốc gia năm 2010 của Bộ Tài Nguyên Môi trường công bố - chỉ rõ.
Khu vực trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm TP.HCM, Đồng Nai và Bình Dương dù có tỷ lệ xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung khá cao nhưng tình trạng ô nhiễm môi trường vẫn chưa được khắc phục.
Theo đánh giá của Trung tâm Môi trường Công nghiệp (CIE), hệ thống nhà máy xử lý nước thải trên toàn quốc vẫn còn rải rác và hầu hết sử dụng công nghệ lạc hậu, chỉ đáp ứng phần nhỏ nhu cầu xử lý nước thải; hệ thống thoát nước vẫn trong tình trạng quá tải, đa số vẫn còn sử dụng hệ thống thoát nước cũ từ nhiều năm về trước.
Tại TP.HCM, chỉ có 2 nhà máy xử lý nước thải với tổng công suất thiết kế 171.000 m3 ngày đêm, chưa đáp ứng được 10% nhu cầu xử lý. Nhiều tuyến sông, kênh rạch trên địa bàn chưa được cải tạo, nâng cấp nên dòng chảy ngày càng bị thu hẹp, hạn chế khả năng thoát nước.
Theo Báo cáo Môi trường Quốc gia 2011, tổng khối lượng chất thải rắn đô thị phát sinh vào khoảng 8.700 - 8.900 tấn/ngày, trong đó chất thải rắn sinh hoạt trung bình gần 6.700 tấn/ngày, tỷ lệ gia tăng khoảng 8 - 10%/năm. Lượng chất thải rắn phát sinh tập trung chủ yếu ở hai đô thị lớn là Hà Nội (khoảng 6.500 tấn/ngày) và TP.HCM (khoảng 7.081 tấn/ngày).
Hiện nay, phương pháp xử lý chất thải rắn sinh hoạt tại các đô thị từ loại IV trở lên của 6 vùng kinh tế chủ yếu là phương pháp chôn lấp, hầu hết sơ sài, không hợp vệ sinh. Mỗi đô thị đều có một bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt, riêng tại Hà Nội và TP.HCM có từ 2 - 5 bãi chôn lấp/ khu xử lý chất thải rắn. Nhiều công nghệ xử lý khác được áp dụng tại 9 đô thị (TP.HCM, Hà Nội, Nam Định, Thái Bình, Vinh, Huế, Phan Rang, Bà Rịa Vũng Tàu) nhưng nhìn chung các phương pháp này chưa đem lại hiệu quả kinh tế và môi trường.
Báo cáo cũng chỉ rõ thực trạng chất thải rắn phát sinh ở các khu đô thị, KCN và cả ở vùng nông thôn ngày càng gia tăng và phức tạp, lượng phát sinh trung bình khoảng 10% mỗi năm. Theo nguồn gốc phát sinh, khoảng 46% chất thải rắn từ đô thị, 17% từ sản xuất công nghiệp, còn lại là từ nông thôn, làng nghề và y tế.
Dự báo đến năm 2015, tỷ trọng này sẽ còn tiếp tục tăng lên tương ứng với con số 51% và 22%, lượng chất thải nguy hại chiếm từ 18-25% lượng chất thải rắn phát sinh tại mỗi khu vực.
Áp dụng công nghệ để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn
Theo ông Robin Scowcroft MRICS - CEO Công ty Dự án Terran, 100% vốn FDI, hoạt động trong lĩnh vực kỹ thuật, mua sắm, xây dựng và quản lý dự án, cần giải quyết triệt để bài toán này để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, góp phần tăng trưởng kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
“Nỗ lực của Chính phủ, chính quyền địa phương trong công tác bảo vệ môi trường là cần thiết cho các dự án quy mô lớn có tính dẫn dắt. Các doanh nghiệp có thể tham gia vào các dự án quy mô vừa và nhỏ, phân bổ đều theo từng cụm địa bàn, đồng thời lưu ý đến việc sản xuất gắn liền với tiết kiệm tài nguyên. Các dự án cần áp dụng công nghệ xử lý hiện đại để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn đầu tư hợp lý” - ông Robin Scowcroft MRICS nhận xét.
Là một chuyên gia giàu kinh nghiệm trong ngành công nghiệp xây dựng và triển khai các dự án về môi trường, ông Robin chia sẻ với Doanh nghiệp & Đầu tư, tùy vào đặc thù địa phương và quy mô dự án sẽ có các công nghệ xử lý phù hợp.
Với đặc thù của TP.HCM thì việc thi công đào kín cho hệ thống cống bao hạn chế được các tác động bất lợi đến môi trường và cư dân địa phương, phù hợp chủ trương mà Trung tâm chống ngập TP.HCM đề xuất.
Cụ thể, kỹ thuật đào kín sẽ được áp dụng bằng phương pháp đào ngầm trong lòng đất để tạo ra các hang đào, sau đó công trình ngầm sẽ được xây dựng ở trong các hang đào này.
Mặt khác, công nghệ đào hầm nhỏ (Microtunnelling) sử dụng hệ thống dẫn hướng bằng lazer được cải tiến từ công nghệ khoan kích ngầm, sử dụng khiên đào có thể điều khiển từ xa để lắp ống kích đẩy có đường kính trong khá nhỏ mà con người không thể ra vào. Trong tương lai, ông Robin Scowcroft MRICS đánh giá, có thể ứng dụng nhiều công nghệ đào kín khác như phương pháp khoan xiên định hướng vô tuyến - Horizontal directional drilling (HDD), phương pháp khoan dẫn (Khoan định hướng) - Guided Boring, công nghệ đóng/ đầm ống - Pipe Ramming...
Đối với nhà máy xử lý nước thải, dựa vào đặc điểm của từng dự án, Dự án Terran sẽ áp dụng công nghệ phù hợp khác nhau như Bùn hoạt tính truyền thống CAS, công nghệ phản ứng sinh học theo mẻ SBR, công nghệ xử lý sinh học bùn hoạt tính cải tiến ASBR và màng lọc sinh học MBR.
CAS là quá trình xử lý sinh học phổ biến và lâu đời nhất, được sử dụng để xử lý nước thải đô thị và công nghiệp. Thông thường, nước thải sau khi qua quá trình xử lý sơ cấp (như: loại bỏ các tạp chất) sẽ được xử lý thông qua quá trình bùn hoạt tính, dựa trên hệ thống xử lý sinh học, bao gồm: bể lắng sơ cấp, bể sục khí và bể lắng thứ cấp. Công nghệ này có chi phí đầu tư thấp, chất lượng nước thải sau xử lý tốt, nếu chất lượng đầu vào là phù hợp và bảo trì dễ dàng.
“Công nghệ phản ứng sinh học theo mẻ SBR là bể xử lý nước thải bằng phương pháp sinh học theo quy trình phản ứng từng mẻ liên tục; quy trình này tuần hoàn với chu kỳ thời gian sinh trưởng gián đoạn và có khả năng thích ứng với sự đa dạng của quá trình bùn hoạt tính, như khuấy trộn hoàn chỉnh theo lối thông thường, tháo lưu lượng, tiếp xúc ổn định và các chu trình sục khí kéo dài” - ông Robin mô tả về công nghệ này với chúng tôi, và cho biết thêm, một chu kỳ tuần hoàn của bể SBR gồm làm đầy, sục khí, lắng, rút nước và nghỉ. Các phản ứng trong bể SBR hoạt động độc lập và liên tục trong chu trình xử lý nên đem lại nhiều lợi ích về kinh tế.
Với “Công nghệ bùn hoạt tính cải tiến ASBR”, quy trình vận hành bể ASBR là một hệ thống xử lý sinh học đơn giản và hoàn toàn tự động, được điều khiển vận hành, kiểm soát bằng hệ thống PLC. ASBR là quy trình công nghệ duy nhất có khả năng khử các chất dinh dưỡng mà không đòi hỏi qui trình xử lý bổ sung để có thể đạt được các tiêu chuẩn xả thải của Việt Nam.
Còn công nghệ màng lọc sinh học MBR là kỹ thuật mới, xử lý nước thải kết hợp dùng màng với hệ thống bể sinh học thể động bằng quy trình vận hành SBR sục khí và công nghệ dòng chảy gián đoạn. Công nghệ này có ưu điểm ổn định chất lượng nước sau xử lý, giảm thiểu tắc nghẽn; giảm giá thành xây dựng nhờ không cần bể lắng, bể lọc và khử trùng; tiêu thụ điện năng rất ít, lượng bùn tạo dư rất nhỏ, và tiện lợi khi bảo trì. Tuy nhiên, chi phí đầu tư ban đầu của công nghệ này khá lớn, do đó, chưa phù hợp với thị trường Việt Nam.
Ông Robin cũng lưu ý, “Các gói tổng thầu là rất cần thiết, bởi lẽ các đơn vị cần chuẩn bị tốt nghiên cứu khả thi, tài chính, phương án kỹ thuật, mua sắm, xây dựng và vận hành thử, các phương án vận hành và bảo dưỡng trong tương lai cho mọi loại hình dự án”.
Đội ngũ nhân sự, chuyên gia và đối tác của Dự án Terran (R4-45 Hưng Phước 4, Phú Mỹ Hưng, Phường Tân Phong, Quận 7, TP.HCM) có nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực liên quan đến cải thiện môi trường, xây dựng và quản lý dự án từ nhiều quốc gia như Châu Âu (Áo, Hungary, Đức, Na Uy), Malaysia, Singapore, Nhật Bản... |



